Nếu thiếu một sự tôn vinh và ghi nhận xứng đáng, chúng ta sẽ để mất một
bằng chứng pháp lý có giá trị trong đấu tranh ngoại giao và pháp lý nhằm bảo vệ
chủ quyền quốc gia, đồng thời bác bỏ các yêu sách vô lý và thủ đoạn chia rẽ nội
bộ ta trong vấn đề Biển Đông từ phía đối phương chỉ vì những khác biệt về mặt
lập trường, quan điểm."
Cách đây 45 năm, sau "cú bắt tay Thượng Hải" năm 1972 và lợi dụng
tình thế quân đội Mỹ buộc phải rút khỏi Niềm Nam Việt Nam, Trung Quốc đã huy
động lực lượng xâm lược, cưỡng chiếm các đảo thuộc nhóm đảo Lưỡi Liềm, phía Tây
quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, lúc đó đang do Việt Nam Cộng hòa quản lý theo
tinh thần Hiệp định Geneva 1954.
Gây ra cuộc chiến xâm lược này, Trung Quốc đã hoàn thành giai đoạn đầu của
chiến lược độc chiếm Biển Đông, dùng Biển Đông làm bàn đạp vươn lên tranh giành
vị trí siêu cường quốc tế.
Những bước tiến xuống Biển Đông có thể được giới nghiên cứu ví như là
những “nước cờ” bất minh mà Trung Quốc đã tính toán để thực hiện trong bàn cờ
Biển Đông.
Toan tính thời cơ xâm lược nốt Hoàng Sa
nằm trong kế hoạch dài hơi độc chiếm Biển Đông
Đầu những năm 1970, quan hệ quốc tế liên tục biến động và có nhiều thay
đổi. Đặc biệt là trong chuyến “công cán lịch sử” đến Trung Quốc của Tổng thống
Mỹ Richard Nixon năm 1972, Mỹ và Trung Quốc đã làm thay đổi cục diện bàn cờ
quốc tế.
Nhiều quốc gia, dân tộc đã trở thành con cờ trong tay của 2 tay chơi mới
đang hùa nhau chống lại Liên Xô.
Washington đã thỏa thuận không can thiệp khi Trung Quốc cất quân xâm lược
nốt nửa phía Tây quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, điều này được ông Nguyễn Văn
Thiệu, Tổng thống chính thể Việt Nam Cộng hòa, đại diện Việt Nam quản lý 2 quần
đảo Hoàng Sa, Trường Sa theo Hiệp định Geneva 1954, đã tiết lộ.
Thậm chí ông Thiệu đã tiên liệu rằng, sau khi thôn tính xong quần đảo Hoàng
Sa, Trung Quốc sẽ đánh chiếm quần đảo Trường Sa bằng vũ lực giống như những gì
họ đã làm ở Hoàng Sa, có sự tiếp tay hoặc làm ngơ (laisser faire) của Mỹ.
Vào đầu năm 1974, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam
bước vào giai đoạn đoạn cuối.
Trước đó, do bị thất bại trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Mỹ đã buộc phải
ký Hiệp định Paris về Việt Nam (27/1/1973), công nhận độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam, rút hết quân Mỹ, quân các nước phụ thuộc
Mỹ khỏi miền Nam Việt Nam.
Theo đó, Hạm đội 7 của Mỹ rút khỏi Biển Đông. Lợi dụng cơ hội này, Trung
Quốc đã huy động lực lượng quân sự hùng hậu tiến hành đánh chiếm nhóm đảo phía
Tây quần đảo Hoàng Sa do Hải quân Việt Nam Cộng hoà đang bảo vệ, quản lý.
Đây là sự nối tiếp của những “nước cờ” đã được sắp đặt từ trước.
Mở đầu là sự kiện năm 1909, Đô đốc Lý Chuẩn chỉ huy 3 pháo thuyền ra khu
vực quần đảo Hoàng Sa, đổ bộ chớp nhoáng lên đảo Phú Lâm, sau đó phải rút lui
vì sự hiện diện của quân đội viễn chinh Pháp, lực lượng được Chính quyền Pháp
giao nhiệm vụ bảo vệ, quản lý, thực thi chủ quyền tại quần đảo này nhân danh
Nhà nước Việt Nam đương thời.
Tiếp đến, năm 1946, lợi dụng việc giải giáp quân đội Nhật Bản thua trận
trong Thế chiến 2 , chính quyền Trung Hoa Dân quốc (Tưởng Giới Thạch) đưa lực
lượng ra chiếm đóng trái phép nhóm đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa.
Khi Trung Hoa Dân quốc bị đuổi khỏi Hoa lục chạy ra Đài Loan, họ phải rút
luôn số quân đang chiếm đóng bất hợp pháp ở phía Đông quần đảo Hoàng Sa.
Năm 1956, lợi dụng tình hình quân đội Pháp phải rút khỏi Đông Dương theo
quy định của Hiệp định Geneva và trong khi chính quyền miền Nam Việt Nam chưa
kịp tiếp quản quần đảo Hoàng Sa theo Hiệp định này, Trung Quốc đã thừa cơ đưa
quân ra chiếm đóng bất hợp pháp nhóm đảo An Vĩnh, phía Đông quần đảo Hoàng Sa.
Ngày 21/02/1959, Bắc Kinh cho một số lính đóng giả ngư dân bí mật đổ bộ lên
các đảo Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Hòa hòng chiếm đóng nhóm Lưỡi Liềm, phía Tây
quần đảo Hoàng Sa.
Lực lượng Việt Nam Cộng hòa đồn trú giữ Hoàng Sa đã ngăn chặn kịp thời, 82
“ngư dân” và 5 thuyền đánh cá vũ trang của Trung Quốc bị bắt giữ và bị áp giải
về giam tại Đà Nẵng. Sau đó được trao trả theo đúng thủ tục ngoại giao.
Cuộc xâm lược Hoàng Sa được Trung Quốc bày binh bố trận và chuẩn bị
rất kỹ.
Điều này đã từng được ký giả người Anh, ông Bill Hayton đã mô tả rất rõ cho
thế giới biết qua cuốn sách "Biển Đông: Cuộc chiến quyền lực ở châu
Á", được đăng tải trên cổng thông tin điện tử Ủy ban nhân dân huyện Hoàng
Sa.
Những ngày trước khi diễn ra cuộc chiến xâm lược Hoàng Sa ngày 19/1/1974,
Trung Quốc đã bí mật bày binh bố trận, đổ bộ lên mộ số đảo, đồng thời ráo riết
dọn đường dư luận cho cuộc xâm chiếm bằng sức mạnh của họ.
|
Diễn biến cụ thể chi tiết của Hải chiến Hoàng Sa đã được Báo Điện tử Giáo
dục Việt Nam đăng tải, bạn đọc quan tâm có thể tìm đọc.
Bản chất hải chiến Hoàng Sa là cuộc
chiến Trung Quốc xâm lược lãnh thổ, vai trò giữ chủ quyền của Việt Nam Cộng hòa
dưới ánh sáng pháp lý quốc tế
Hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu bảo vệ quần đảo Hoàng Sa trong Hải chiến
Hoàng Sa năm 1974 là hoàn toàn chính nghĩa, phù hợp với Luật pháp và Thực tiễn
quốc tế.
Bởi lẽ quần đảo Hoàng Sa là một phần lãnh thổ của Việt Nam.
Nhà nước Việt Nam là nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và thực
thi chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, khi
chúng còn là đất vô chủ, ít nhất là từ thế kỷ XVII.
Việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền này là thật sự, liên tục, hòa bình và
rõ ràng. Việt Nam hoàn toàn có cơ sở pháp lý và chứng cứ lịch sử có giá trị
pháp lý để khẳng định và bảo vệ chủ quyền hợp pháp của mình, đáp ứng đủ
những điều kiện mà nguyên tắc chiếm hữu thật sự đòi hỏi.
Trung Quốc sử dụng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam là phi
pháp, vi phạm luật pháp quốc tế.
Hành động đánh chiếm các đảo trong quần đảo ở Biển Đông bằng vũ lực là một
sự vi phạm nghiêm trọng Điều 2, Khoản 4 của Hiến chương Liên Hơp Quốc, trong đó
cấm các quốc gia sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, đặc biệt là cấm sử dụng
vũ lực để xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia khác.
Nội dung điều khoản này trong Hiến chương Liên Hợp Quốc là một nguyên tắc
cơ bản của luật pháp quốc tế, đòi hỏi tất cả các nước thành viên của Tổ chức
Liên hợp quốc, trong đó có Trung Quốc, phải tuân thủ.
Nguyên tắc này được phát triển và cụ thể hoá trong Nghị quyết 2625 ngày 24
tháng 10 năm 1970 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc trong đó quy định:
“Các quốc gia có nghĩa vụ không đe doạ
hay sử dụng vũ lực để vi phạm các biên giới quốc tế hiện có của một quốc gia
khác, hay (coi đe doạ hay sử dụng vũ lực) như biện pháp giải quyết các tranh
chấp quốc tế, kể cả những tranh chấp về đất đai và những vấn đề liên quan đến
biên giới của các quốc gia”.
Hành động Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm phần phía Đông của quần đảo
Hoàng Sa năm 1956 và chiếm nốt phần phía Tây của quần đảo này năm 1974 thực
chất là một hành động xâm lược lãnh thổ của Việt Nam bằng vũ lực.
Theo luật pháp quốc tế việc Trung Quốc sử dụng vũ lực để chiếm các đảo ở
quần đảo Hoàng Sa không tạo ra được chứng cứ pháp lý để khẳng định yêu sách chủ
quyền của Trung Quốc đối với các đảo, đá mà họ đã dùng vũ lực để chiếm đoạt.
Nghị quyết 2625 ngày 24/10/1970 của Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc được trích
dẫn ở trên đã nêu rõ:
“Lãnh thổ của một quốc gia không thể là
đối tượng của một cuộc chiếm đóng quân sự do sử dụng vũ lực trái với các quy
định của Hiến chương Liên Hợp Quốc.
Lãnh thổ của một quốc gia không thể là
đối tượng của một sự chiếm hữu của một quốc gia khác sau khi dùng vũ lực hay đe
doạ sử dụng vũ lực. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào đạt được bằng đe doạ hay sử
dụng vũ lực sẽ không được thừa nhận là hợp pháp”.
Hành động xâm lược nói trên không bổ sung vào bộ hồ sơ pháp lý về yêu sách
chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông.
Những hành động như vậy đã bị cộng đồng quốc tế lên án mạnh mẽ và chắc chắn
sẽ bị các cơ quan tài phán quốc tế bác bỏ một khi chúng được đưa ra tòa án quốc
tế nhằm minh chứng cho yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông.
Đoàn kết dân tộc là nguồn sức mạnh vô
địch để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược
Lịch sử đã chứng minh, nước mất thì nhà tan, chủ quyền, lãnh thổ thường bị
ngoại bang xâm phạm; khi Đất Nước bị chia cắt, khối đoàn kết Dân tộc bị suy
giảm;
Khi mà trên dưới không đồng lòng; khi có sự tranh giành lợi ích, địa vị…
giữa các cá nhân và nhóm lợi ích; khi có sự phân biệt chia rẽ trong nội bộ của
một quốc gia, giữa các quốc gia, khu vực và quốc tế vì những tính toán ích kỷ,
vụ lợi...thì các nước nhỏ sẽ trở thành miếng mồi cho các nước lớn xâu xé.
Ngược lại, đoàn kết dân tộc là nguồn sức mạnh vô địch để chiến thắng mọi kẻ
thù xâm lược dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù khó khăn nguy hiểm đến đâu.
Sau năm 1954, do bối cảnh lịch sử Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành 2
miền Nam, Bắc chờ tổng tuyển cử theo Hiệp định Geneva, chính quyền Việt Nam
Cộng hòa ở miền Nam tiếp nhận sự bàn giao của Pháp, tiếp tục thực thi chủ quyền
đầy đủ và liên tục đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam thông
qua việc cắt quân đồn trú, thị sát, quản lý, thành lập đơn vị hành chính.
Cả 4 lần Trung Quốc đem quân thôn tính Hoàng Sa (1909, 1956,1959 và 1974)
đều là thời điểm Việt Nam đang phải đối mặt với chiến tranh.
Năm 1974, những người con đất Việt trong hàng ngũ Hải quân Việt Nam Cộng
hòa có mặt trong trận Hải chiến không cân sức này đã chiến đấu và ngã xuống để
bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Việt Nam.
Trong bối cảnh lịch sử lúc đó, lập trường chính trị 2 miền có thể khác
nhau, nhưng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, “nước Việt Nam là một, dân
tộc Việt Nam là một”, việc các anh đã chiến đấu, ngã xuống là nhằm bảo vệ
chủ quyền của người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam ở Hoàng Sa.
Vì vậy, họ cần được ghi nhận và tôn vinh vì những giọt máu đổ xuống chính
là bằng chứng của quá trình Nhà nước Việt Nam thực thi chủ quyền liên tục đối
với quần đảo này trong suốt chiều dài lịch sử.
Nếu thiếu một sự tôn vinh và ghi nhận xứng đáng, chúng ta sẽ để mất một
bằng chứng pháp lý có giá trị trong đấu tranh ngoại giao và pháp lý nhằm bảo vệ
chủ quyền quốc gia, đồng thời bác bỏ các yêu sách vô lý và thủ đoạn chia rẽ nội
bộ ta trong vấn đề Biển Đông từ phía đối phương chỉ vì những khác biệt về mặt
lập trường, quan điểm.
Sáng 29/12/2018, tại thủ đô Phnom Penh, đã diễn ra Lễ khánh thành Tượng đài
Thắng - Thắng, kỷ niệm 20 năm kết thúc nội chiến và thực hiện thành công chính
sách Thắng - Thắng dưới sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ Hoàng gia Campuchia
Samdech Techo Hun Sen.
Thủ tướng Samdech Techo Hun Sen nêu bật ý nghĩa to lớn của việc thực hiện
chính sách Thắng - Thắng trong công cuộc kiến tạo hòa bình, thực hiện hòa hợp
dân tộc cho đất nước Campuchia.
Đối với sĩ quan, binh lính và những người ủng hộ Khmer Đỏ quy hàng, Chính
phủ bảo đảm về an toàn tính mạng, nghề nghiệp, tài sản, đồng thời tạo điều kiện
cho họ tái hòa nhập với đời sống xã hội.
Chỉ sau hai năm thực hiện từ 1996-1998, hầu hết các cựu chỉ huy Khmer Đỏ
cùng binh lính và gia đình đã chính thức giao nộp vũ khí, xin được đứng dưới
ngọn cờ hòa hợp dân tộc của Thủ tướng Hun Sen và Đảng Nhân dân Campuchia.
Chưa cần nhìn tới nước Đức xa xôi, ngay người bạn láng giềng của chúng ta
là một minh chứng hùng hồn cho sức sống của triết lý, một giọt máu đào hơn ao
nước lã, nhiễu điều phủ lấy giá gương.
Những diễn biến trên bán đảo Triều Tiên năm qua cũng đang cho thấy, lợi ích
quốc gia và dân tộc nếu thực sự được đề cao, những khó khăn về lập trường, nhận
thức rồi cũng sẽ vượt qua, và dân tộc ấy, quốc gia ấy sẽ trở nên cường thịnh.
Nhân 45 năm ngày Hoàng Sa bị Trung Quốc thôn tính, chúng tôi viết vội mấy
dòng như một nén tâm hương tưởng niệm anh linh 74 người lính đã ngã xuống để
bảo vệ chủ quyền quần đảo Hoàng Sa.
Chúng tôi cũng bồi hồi tưởng nhớ đến tất cả các bậc tiên liệt, đồng bào
chiến sĩ đã ngã xuống để bảo vệ non sống gấm vóc của dải đất hình chữ S này,
xương máu cha anh đã hóa hồn thiêng sông núi, và gửi gắm hy vọng vào thế hệ hôm
nay, thế hệ tương lai.
Tiến sĩ Trần Công Trục