Theo BVN
Đỗ Trung Hậu
Trong thời gian vừa qua có rất nhiều quan điểm tranh cãi về chủ quyền của VN với Hoàng Sa, nhất là trong giai đoạn 1954-1975.
Nhiều
quan điểm rất sai lầm dựa vào HĐ Geneve 1954, Hiệp định Paris 1973 cho
rằng Việt Nam chỉ là 01 Quốc gia duy nhất, VNCH, VNDCCH chỉ là các chính
thể (các chính phủ chỉ quản lý các vùng lãnh thổ miền Bắc và miền Nam)
trong cùng 1 Quốc Gia (QG), đấu tranh lẫn nhau dẫn đến kết quả
30/04/1975. Đây chính là quan điểm mà Trung Quốc rất mong muốn, Trung
Quốc đã tuyên truyền bao lâu nay, và điều đó trực tiếp phủ nhận chủ
quyền Hoàng Sa của Việt Nam trong giai đoạn 1954-1975 trên bình diện
Quốc tế.
Trước khi phân tích về các quan điểm
trên, ta nên thống nhất lại một số khái niệm, hiểu rõ ràng hơn về cái
nghĩa Quốc Gia trong luật quốc tế(LQT)
1/.Quốc gia: là một thuật ngữ pháp lý (http://www.cfr.org/.../montevideo-convention.../p15897)
Có 4 thuộc tính rất quan trọng, thuộc tính lãnh thổ luôn gắn liền với quốc gia
-Có lãnh thổ nhất định
-Có cư dân sinh sống
-Có
Chính phủ, Chính phủ phải kiểm soát “phần lớn lãnh thổ “ mà QG đang
chiếm được trên thực tế, Chính phủ không phụ thuộc trên bình diện quốc
tế.
-Có khả năng quan hệ ngoại giao quốc tế (với các quốc gia khác) và gánh chịu được các quan hệ ngoại giao đó
Như vậy: Quốc gia không đồng nhất với đất nước, nước (Đất nước, nước là một khái niệm về lãnh thổ địa lý)
-Sự
hiện hữu của một quốc gia không dựa vào sự công nhận của các quốc gia
khác. (Điều 3 công ước Monteviedo 1933). Ta hiểu là QG không phải luôn
là 1 nước thống nhất hoàn toàn, và bắt buộc phải được Liên Hiệp Quốc
(LHQ) hay một số QG lớn công nhận. Việc LHQ công nhận QG là một nhận
thức phụ thuộc theo nhiều ý chí chủ quan và thời gian.
2/. Chủ quyền lãnh thổ của QG không đồng nhất với việc quản lý, kiểm soát hay chiếm dụng.
Việc
thụ đắc lãnh thổ phải trên nguyên tắc LQT – các Công ước LHQ. QG Kiểm
soát, chiếm đóng, nắm giữ lãnh thổ không có nghĩa là QG đang có chủ
quyền với lãnh thổ khi mà chủ quyền đó đã được QG khác xác lập và chưa
từ bỏ chủ quyền của mình.
i/.Để xác định tại
thời điểm có HĐ Geneve 1954 có quốc gia Việt Nam độc lập nào bị chia cắt
hay chưa ta quay lại quá khứ một chút:
- Năm
1884, Triều định Nhà Nguyễn ký hiệp ước, sáp nhập vào Pháp. 1887, Pháp
chia VN thành 03 kỳ, lập LB Đông Dương thuộc CH Pháp. Như vậy bắt đầu từ
thời điểm này đến 1945: trên lãnh thổ VN không có QG nào, An Nam của
Vua Bảo Đại chỉ quản lý Trung Kỳ tự trị và cũng thuộc Pháp. Và kết thúc
vào 25/08/1945 khi Bảo Đại thoái vị trao ấn kiếm cho chính quyền Việt
Nam Dân chủ Cộng Hòa (VNDCCH).
- Ngày 2/09/1945
CT.Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn khai sinh ra nước VNDCCH, phải hiểu chính
thể này như thế nào? Có phải là một QG đúng nghĩa theo LQT. 1/1946 Bầu
cử trên Toàn quốc để bầu ra chính phủ LH. 6/03/1946 VNDCCH ký với Pháp
hiệp định sơ bộ để Pháp công nhận VNDCCH là 1 QG tự do (gồm Bắc kỳ,
Trung kỳ) nằm trong Liên Hiệp Pháp (LHP). Như vậy bắt đầu từ thời điểm
này chính thể VNDCCH đã hình thành tiền đề cho 1QG đúng nghĩa sau này.
Kế đến tại Hội nghị Fontainebleau bị đổ vỡ do Pháp không chấp nhận yêu
sách sáp nhập Nam Kỳ vào VNDCCH vì Pháp đã có ý đồ lập ra Nam Kỳ quốc
(vấn đề ý đồ của Pháp đã được bà Monique Chemillier-Gendreau phân tích
rất rõ trong quyển sách nói về chủ quyền Hoàng Sa, xuất bản 1996).
12/1946 Pháp tái lập chủ quyền của mình tại Đông Dương. VNDCCH rút lên
chiến khu Việt Bắc và đã có cuộc kháng chiến đến năm 1954 , kết thúc
bằng trận chiến Điện Biên phủ.
- Ngày 7/12/1946,
Pháp và Bảo Đại ký hiệp ước Vịnh Hạ Long đồng thuận về thống nhất Việt
Nam, trong LHP. Tháng 1 năm 1949 Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu
hoàng Bảo Đại đã ký Hiệp ước Elysée tuyên bố xác nhận "nền độc lập của
Việt Nam", chính thức thành lập Quốc gia Việt Nam (QGVN) trong khối Liên
hiệp Pháp, đứng đầu là Quốc trưởng Bảo Đại. Đây là 1 chính phủ phụ
thuộc, non yếu. Các quyền quan trọng về quân sự, tài chính và ngoại giao
đều do người Pháp nắm giữ và quyền hành cao nhất trên thực tế là Cao ủy
Pháp. Tính độc lập của nhà nước QGVN không có, vì đa số lãnh thổ Việt
Nam vẫn do Pháp nắm giữ kiểm soát, phần còn lại do VNDCCH kiểm soát.
Kết
luận từ năm 1945 đến 1954 trước khi ký kết Hiệp Định (HĐ) Geneve, đã
hình thành 02 chính thể VNDCCH, QGVN tiền đồ cho 02 thực thể sau này,
nhưng không có một QG đúng nghĩa theo LQT khi mà Pháp vẫn giữ chủ quyền
toàn bộ Đông Dương, chỉ trao trả một phần thông qua ký kết HĐ Geneve.
Chính xác là chỉ có đất nước VN (lãnh thổ địa lý) bị chia cắt làm 02
phần ngay vĩ tuyến 17.
Ii/. Tại thời điểm ký kết HĐ Geneve 1954:
HĐ Geneve 1954 là một vấn đề gây ra nhiều tranh cãi nhất cho đến ngày hôm nay người ta vẫn chưa lý giải một cách trọn vẹn về nó.
Ngày 20 tháng 7 năm 1954, HĐ Genève về Đông Dương bắt đầu được ký kết với nhiều văn kiện, chủ yếu là:
1. Ba hiệp định đình chỉ chiến sự tại Việt Nam, Lào và Campuchia
2. Bản tuyên bố cuối cùng của hội nghị (không có chữ ký)
Ngoài ra còn những tuyên bố riêng và những văn kiện ngoại giao riêng giữa các nước tham gia như:
1. Bản tuyên bố riêng ngày 21 tháng 7 của Mỹ tại Hội nghị Genève
2.
Bản tuyên bố của chính phủ Pháp ngày 21 tháng 7, trong đó nêu rõ Pháp
sẵn sàng rút quân ra khỏi lãnh thổ Việt Nam, Lào, Campuchia theo lời yêu
cầu của chính phủ những nước có liên quan trong một thời gian do các
bên thoả thuận.
3. Các công hàm trao đổi giữa Trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng và Thủ tướng Pháp Pierre Mendès-France.
-
Rất nhiều chuyên gia pháp lý quốc tế cho rằng HĐ Geneve 1954 thuần túy
là một hiệp định về quân sự (1 trong những chứng cứ về luận điểm này là
chỉ chia biên giới tạm đình chiến), ít có giá trị về mặt chính trị, giá
trị về công pháp quốc tế.
Người ta hay viện dẫn
điều 6 và điều 7 trong bản tuyên bố cuối cùng, ngày 21/07/1954 mà không
có bên nào ký , bản tuyên bố này phải hiểu là ý nguyện của các bên, có
điểm bắt đầu là 07/1954, kết thúc là 7/1956 , và ý nguyện là sẽ có 1
Quốc gia thống nhất trong tương lai. Còn về giá trị pháp lý theo LQT có
hay không cần phải xem xét tất cả các điều kiện thỏa đáng của nó.
-
Như vậy phải hiểu như thế nào về HĐ này? Về mặt thực tế nó là HĐ về
quân sự, hay nói chính xác hơn là Pháp đã buộc phải trao trả độc lập chủ
quyền toàn bộ từ vĩ tuyến 17 về phía bắc cho VNDCCH (do Pháp đã thua
trong trận chiến mấu chốt là trận Điện Biên Phủ). Còn vĩ tuyến 17 trở về
nam vẫn là của LHP, trong đó có bao gồm QGVN. Pháp chỉ chính thức từ bỏ
chủ quyền này là từ 4/1956.
Iii/. VNDCCH và Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) có phải là 02 quốc gia?
-
Nhiều người viện dẫn là trong điều 6, HĐ geneve 1954, (và sau này là HĐ
Paris luôn có một vấn đề) đường ranh giới quân sự tạm thời này không
thể diễn giải bằng bất cứ cách nào rằng đó là một biên giới phân định về
chính trị hay lãnh thổ. Và các bên phải tôn trọng chủ quyền độc lập
toàn vẹn lãnh thổ.
Đó là ý nguyện của 1 HĐ mà
các bên tham gia đã ký, ý nguyện đó có thực hiện được hay không là vào
thời điểm 7/1956, thực tế không có một kết quả bầu cử thống nhất nào
diễn ra, và đường biên giới tạm thời này kéo dài vô hạn định, dẫn đến 1
thực tế là có 02 thực thể. 02 thực thể này thỏa mãn đầy đủ 4 thuộc tính
về khái niệm QG như đã nói ở trên. Và cũng chính quan điểm về QG này mới
khẳng định chủ quyền lãnh thổ Hoàng Sa thuộc về VNCH trên bình diện
quốc tế. Nếu trong giai đoạn 1954-1975 02 thực thể VNCH, VNDCCH không là
QG thì chủ quyền Hoàng Sa trên phương diện quốc tế lúc đó thuộc về ai.
Pháp đã kết thúc chủ quyền từ năm 1956, nếu không có thì chủ quyền đó
thuộc về QG khác. Và phía Trung Quốc luôn mong muốn VN chúng ta theo
quan điểm này để họ bác bỏ chủ quyền Hoàng Sa của Việt nam.
4i/.
Từ lập luận trích ra từ 1 điều trong bản tuyên bố cuối cùng – bản tuyên
bố ý nguyện của HĐ Geneve (bản tuyên bố mà không có bên nào ký nhận)
đường ranh giới quân sự tạm thời này(đường vĩ tuyến 17) không thể diễn
giải bằng bất cứ cách nào rằng đó là một biên giới phân định về chính
trị hay lãnh thổ để bác bỏ lập luận của VN hiện nay. Thực ra lập luận
chính thống hiện nay là căn cứ vào thực tế từ mốc 7/1954, mới hình thành
lãnh thổ thực tế của VNDCCH, VNCH. Và chính vì lãnh thổ thực tế như vậy
VNDCCH không có thẩm quyền về các vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa trong công
thư của TT-Phạm Văn Đồng, chứ không có lập luận là “dựa vào Hiệp định
Geneve 1954”.
Ta thấy trường hợp đất nước Việt
Nam bị chia cắt giống như trường hợp Triều Tiên. Năm 1910 Triều tiên
thực sự bị sáp nhập vào Nhật qua hiệp ước Nhật-Hàn. Từ thời điểm 1910
đến 1953, Triều Tiên không có một quốc gia đúng nghĩa khi bị phân chia
sau khi kết thúc chiến tranh thế giới lần 2 (phía Bắc do Liên Xô nắm
giữ, phía Nam do Mỹ). Và cũng bắt đầu từ 1945 hình thành 02 chính thể
CHNDTT, và Đại Hàn dân quốc. Hiệp ước tạm đình chiến tại Bàn Môn Điếm
1953, chỉ là biên giới tạm thời, chưa bao giờ là biên giới phân chia
quốc gia. Thế nhưng thực tế từ sau 1953 đã hình thành 02 QG, và vào thập
niên 1990, cả 02 QG này đều là thành viên chính thức của LHQ.
Đ.T.H