Theo Viet-studies
Nguyễn Trung
Tiếp theo những sự kiện gây hấn liên tục từ mấy năm nay ở Hoa Đông và khu vực bãi san hô Scarbourough, sự kiện giàn khoan HD 981 và việc Trung Quốc đang ráo riết xây dựng các căn cứ nổi tại các bãi đá Gạc Ma, Chữ Thập thuộc nhóm các đảo Trường Sa của Việt Nam (Trung Quốc đánh chiếm năm 1988) đánh đi một tín hiệu báo động với các nước trong khu vực và cả thế giới: Trung Quốc đang bước vào thời kỳ thực hiện quyết liệt khát vọng bá chiếm Biển Đông, với mục tiêu trước mắt trở thành đế chế đại dương.
Toàn bộ bước đi nói trên của Trung Quốc mở đầu một giai đoạn mới của quá trình thực hiện khát vọng trở thành siêu cường vào khoảng giữa thế kỷ này. Với những tính toán dựa trên thực tế là cục diện quốc tế sau chiến tranh Iraq (2003 -2010) đã chuyển sang thế giới đa cực với nhiều diễn biến mới phức tạp, Trung Quốc trong nhiệm kỳ Hồ Cẩm Đào (khóa 17 của ĐCSTQ 2007 - 2012) đã chủ trương kết thúcthời kỳ giấu mình chờ thời , để chuyển sang thời kỳ thể hiện sức mạnh thực hiện “giấc mơ Trung Hoa”, với những bước đi cứng rắn được xác định tại đại hội 18 của Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) thời Tập Cận Bình.
Trên thế giới sau chiến tranh Iraq (2003 – 2010), nước Mỹ thời Obama từ nhiệm kỳ I đã chuyển mạnh sang quan điểm chiến lược san sẻ trách nhiệm giữa các đồng minh trong những vấn đề quốc tế và đề ra chiến lược trục xoay về Châu Á – Thái Bình Dương để đối phó với sự lấn át ngày càng leo thang của Trung Quốc đang uy hiếp các nước láng giềng trong khu vực. Trong bối cảnh tình hình rất phức tạp ở Ukraina, việc Nga sáp nhập Crimea (04-2014) là bước mở đường đưa đế chế Nga trở lại chính trường quốc tế. Đồng thời với sự kiện Crimea, hợp tác Nga – Trung qua chuyến đi Trung Quốc của Putin tháng 05-2014 đã tạo ra một dạng tập hợp lực lượng mới đối phó lẫn nhau giữa các “cực” lớn trên thế giới. Động thái này mang lại nhiều lợi thế mới cho Trung Quốc để (a) khai thác những cơ hội mới đang đến, và (b) để phát huy lợi thế tương đối do sức mạnh áp đảo tại chỗ trong khu vực Đông Nam Á.
Cũng khoảng một thập kỷ nay các nước phương Tây nói chung đang phải trải qua một thời kỳ thay đổi quyết liệt cấu trúc kinh tế, phải xử lý nhiều vấn đề nảy sinh trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế nói chung và trong những biến động mới của địa kinh tế và địa chính trị của cục diện quốc tế hôm nay nói riêng. Nói một cách đơn giản, Mỹ và các nước phương Tây đang ở trong thời kỳ rất bận rộn với chính bản thân mình. Trong khi đó sự phụ thuốc lẫn nhau ở phạm vi toàn cầu ngày càng phức tạp hơn, xử lý vấn đề nào cũng vướng phải tình trạng rút dây động rừng (dẫn chứng rõ nét nhất là Mỹ và phương Tây có nhiều lợi ích đối kháng với lợi ích của Nga và Trung Quốc, nhưng sự phụ thuộc lẫn nhau – nhất là trong kinh tế - giữa tất cả các đối thủ này vẫn ngày càng lớn). Trung Quốc bất chấp đạo lý và luật pháp quốc tế, cũng không quan tâm đến trách nhiêm là nước lớn, luôn luôn theo đuổi cách hành xử “mục tiêu biện minh cho biện pháp”, do đó đang khai thác tốt nhất những rối ren trên thế giới.
Mấy tháng gần đây lại nổi lên thánh chiến của lực lượng Nhà nước Hồi giáo và Cận Ðông (ISIL) có mối liên hệ mật thiết với mạng lưới al-Qaeda và Taliban. Diễn biến mới này chẳng những có nguy cơ nhấn chìm Iraq trong nội chiến, mà đang cùng với những biến động phức tạp ở Ai-cập và Syrie có thể đảo ngược tình hình toàn khu vực Trung Đông với những hệ quả khó đoán trước. Mỹ và phương Tây đang rất lúng túng. Tình hình nghiêm trọng đến mức Iran – vốn là “kẻ thù nguy hiểm” của Mỹ và Iraq – đã tuyên bố sẵn sàng hợp tác với Mỹ và Iraq trong việc đẩy lùi phiến quân thánh chiến ISIL, kể cả việc đưa quân vào Iraq. Đương nhiên, những diễn biến mới này đang tạo ra tình hình “đục nước béo cò” cho các đối thủ ngoài cuộc.
“Con cò ngoài cuộc” lớn nhất hiện nay đang là Trung Quốc.
Nhờ vào tận dụng các lợi thế riêng và triệt để khai thác quá trình toàn cầu hóa, kinh tế Trung Quốc dù nhiều khuyết tật thế nào đi nữa vẫn đang có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong số tất cả các cường quốc, có khả năng trở thành nền kinh tế có quy mô GDP lớn nhất hành tinh vào giữa thế kỷ 21, vô luận cái giá nhân dân Trung Quốc và các nền kinh tế khác phải trả như thế nào cho sự phát triển này. Với dự trữ ngoại tệ hiện nay khoảng 4000 – 4500 USD (lớn nhất thế giới, gấp khoảng 20 lần của Mỹ, khoảng gấp 3 Nhật, gấp 4 khối EU…), với ngân sách quốc phòng từ hơn một thập kỷ nay tăng 2 con số, Trung Quốc đang tạo ra cho mình một lực lượng quân sự có thế mạnh áp đảo tại chỗ so với các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Cục diện quốc tế nói trên, bối cảnh cụ thể của khu vực Đông Nam Á hiện nay, và đòi hỏi bên trong cùng với tiềm lực Trung Quốc đã tích tục được, đấy là ba nguyên nhân chủ yếu dẫn tới kết thúc thủ đoạngiấu mình chờ thời , để từ những năm gần đây chuyển hẳn sang giai đoạn mới của chiến lược bá chiếm Biển Đông.
Cái nền làm cơ sở cho quyết định của Trung Quốc trên Biển Đông cho thấy:
(a) sự kiện giàn khoan HD 981 là một bước đi có tính toán kỹ lưỡng trong toàn bộ chiến lược lớn của Trung Quốc, cố khai thác tối đa những diễn biến mới trong cục diện đa cực rất phức tạp của bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay;
(b) sự kiện giàn khoan HD 981 cùng với việc ráo riết xúc tiến xây dựng các căn cứ quân sự nổi ở Gạc Ma và Chữ Thập nằm trong tổng thể ý đồ chiến lược mở ra thời kỳ mới quyết liệt giành bá quyền trên Biển Đông;
(c) các lý do (a) và (b) nêu trên cho thấy sự kiện giàn khoan HD 981 không phải là một hành động đơn lẻ của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền và lãnh hải chống Việt Nam, mà là một hành động mang tính chất xâm lược, nằm trong tổng thế chiến lược bá chiếm Biển Đông;
(d) việc Trung Quốc khăng khăng cự tuyệt đối thoại với Việt Nam để giải quyết hòa bình sự kiện giàn khoan HD 981, xuyên tạc trắng trợn sự thật để chủ động tố cáo Việt Nam về sự kiện này tại Liên Hiệp Quốc, ráo riết thực hiện những thủ đoạn ngoại giao hung hăng khác trên các diễn đàn quốc tế (gần đây nhất là diễn đàn Shangri La 13) cho thấy Trung Quốc đã chủ động vứt bỏ 4 tốt và 16 chữ trong quan hệ với Việt Nam – vì đã sử dụng xong rồi.
Đến đây có thể rút ra nhận định: Cùng với việc mở đầu thời kỳ quyết liệt thực hiện khát vọng bá chiếm Biển Đông, Trung Quốc còn chủ động tạo ra những yếu tố đối kháng mới trong quan hệ với Việt Nam. Liên quan đến sự kiện giàn khoan HD 981, có thể xem việc kích động bạo loạn trong những ngày 13 và 14-05-2014 cướp phá khoảng 800 xí nghiệp của Việt Nam có FDI tại 22 địa phương, gây cho phía Việt Nam nhiều thiệt hại rất lớn về kinh tế và chính trị là dẫn chứng mới nhất của những yếu tố đối kháng này trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối với Việt Nam. Hiển nhiên Trung Quốc đã chuyển quan hệ song phương giữa hai nước sang một thời kỳ quyết liệt mới.
Trong khi đó nước ta như thế nào và đang đứng ở đâu?
Bước vào năm độc lập thống nhất đất nước thứ 40, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của Việt Nam đã tạo ra những bước phát triển ban đầu, với kết quả trở thành nước có thu nhập trung bình – đúng ra phải nói là nước có thu nhập trung bình thấp. Nhưng tình hình cho thấy mặc dù sự nghiệp công nghiệp hóa của Việt Nam trong 3 thập kỷ vừa qua đã huy động được một nguồn lực có mọi nguồn gốc khác nhau lớn khoảng gấp đôi của Hàn Quốc cho thời kỳ này (cũng khoảng 3 thập kỷ: 1960 – 1990), nhưng Việt Nam không thể hoàn thành công nghiệp hóa vào năm 2020. Hiện nay Việt Nam vẫn là một nước nghèo, năng suất lao động thấp nhất trong khu vực, từ năm 2007 bước vào cuộc khủng hoảng cơ cấu kinh tế rất trầm trọng, nợ nần lớn, hiện nay vẫn đang tìm đường ra.
Trong khi đó chế độ chính trị định hướng xã hội chủ nghĩa do ĐCSVN xây dựng lên cho đất nước độc lập thống nhất hiện nay đã bị tha hóa của quyền lực biến thành chế độ toàn trị: Đảng đứng trên nhà nước và pháp quyền, ngăn cấm tự do tư duy, tước đoạt nhiều quyền của công dân đã ghi trong hiến pháp, quan liêu và tham nhũng nặng nề… Thể chế chính trị hiện nay có nhiều bất công xã hội gay gắt, trấn áp dân tùy tiện, nền giáo dục bị khủng hoảng trầm trọng, tệ nạn xã hội tràn lan. Một chế độ chính trị như vậy cùng với thực trạng kinh tế - văn hóa – xã hội của đất nước hiện nay có nhiều mặt xuống cấp nguy hiểm, phải nói về thực chất đã và đang hình thành lên ở nước ta một ách nô dịch mới, kìm hãm sự phát triển của đất nước.
Có thể nhận định: Thực hiện đường lối xây dựng và bảo vệ đất nước theo ý thức hệ định hướng xã hội chủ nghĩa của ĐCSVN, Việt Nam đã kết thúc một giai đoạn phát triển thất bại (1975 – 2014). Nét nổi bật nhất của thất bại này là các thành tựu đạt được rất thấp so với (a) vốn, công sức và thời gian đã bỏ ra, (b) so với tài nguyên thiên nhiên và môi trường tự nhiên đã bị lấy đi, (c) so với cơ hội đất nước có được trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế thế giới, (d) so với mức sống, hạnh phúc và các phúc lợi xã hội cũng như so với các quyền tự do dân chủ người dân lẽ ra phải được hưởng.
Sau 40 năm phát triển đầu tiên thời độc lập thống nhất, đến hôm nay Việt Nam chỉ có được một nền kinh tế với cơ cấu lạc hậu, kết cấu hạ tầng kém phát triển, chất lượng nguồn nhân lực thấp, năng lực cạnh tranh và hội nhập kinh tế vốn đã thấp lại đang giảm sút. Trong khi đó thể chế chính trị quá yếu kém và có nhiều bất cập. Việt Nam đang đứng trước đòi hỏi sống còn phải chuyển sang một thời kỳ phát triển kinh tế bền vững và phải có một thể chế chính trị pháp quyền dân chủ bảo đảm tạo ra bước phát triển mới này của đất nước.
Yếu kém về kinh tế và yếu kém của thể chế chính trị 40 năm qua không những lấy đi nhiều cơ hội phát triển của Việt Nam, mà còn khiến cho Việt Nam chỉ giành được vị trí quốc tế thấp và không phát huy được vai trò cần phải có của mình trong quan hệ quốc tế. Thực tế này giảm thiểu đáng kể khả năng phát triển, khả năng hội nhập và khả năng bảo vệ lợi ích của đất nước.
Đặc biệt đường lối gìn giữ quan hệ đại cục với Trung Quốc trên cơ sở ý thức hệ mang lại cho đất nước sự lệ thuộc toàn diện rất nghiêm trọng, tạo ra sự can thiệp nguy hiểm của quyền lực mềm Trung Quốc vào đời sống mọi mặt của đất nước, kìm hãm sự phát triển của đất nước như một chư hầu kiểu mới của Trung Quốc. Thực tế cho thấy Việt Nam càng kiên trì giữ “đại cục”, Trung Quốc càng lấn tới, 4 tốt và 16 chữ chỉ là chuyện lừa bịp. Việc Trung Quốc tự tay vứt bỏ 4 tốt và 16 chữ chứng minh sự phá sản của các mối quan hệ giữa hai đảng (ĐCSVN & ĐCSTQ) và hai nước (VN & TQ) dựa trên ý thức hệ. Thực ra đó chỉ là sự phá sản ý thức hệ của ĐCSVN, sự phá sản của những ảo tưởng của ĐCSVN về Trung Quốc. Bởi vì trên thực tế từ hơn nửa thế kỷ nay ĐCSTQ chỉ có ý thức hệ siêu cường Đại Hán dưới cái tên gọi là CNXH đặc sắc Trung Quốc. Hiện nay tự tay Trung Quốc còn đang gây ra những yếu tố đối kháng mới trong quan hệ với Việt Nam.
Toàn bộ những vấn đề trình bầy trên cho thấy:
1) Từ một thập kỷ nay thế giới đã chuyển sang cục diện đa cực với nhiều diễn biến rất phức tạp tác động đến mọi quốc gia, đòi hỏi mọi quốc gia phải thay đổi để đối phó; Trung Quốc đang ra sức khai thác tình hình này.
2) Từ những năm gần đây Trung Quốc đã thực sự bước vào thời kỳ quyết liệt thực hiện khát vọng bá chiếm Biển Đông, thách thức trực tiếp độc lập và chủ quyền của Việt Nam, tích tụ những yếu tố đối kháng mới trong quan hệ với Việt Nam, tiếp tục siết chặt hơn nữa sự lệ thuộc của Việt Nam để lũng đoạn.
3) Đường lối xây dựng và bảo vệ đất nước 40 năm qua theo định hướng xã hội chủ nghĩa của ĐCSVN cơ bản là thất bại, đòi hỏi Việt Nam bắt buộc phải chuyển sang một thời kỳ phát triển bền vững và phải có một thể chế chính trị phát huy được quyền làm chủ của nhân dân để hoàn thành nhiệm vụ này.
4) Cục diện mới hiện nay của thế giới và trong khu vực đang đặt ra cho Việt Nam nhiều thách thức mới – nhất là trong mối quan hệ song phương Việt – Trung. Thực tế khách quan này càng đòi hỏi: Để thành công trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc của mình, Việt Nam nhất thiết phải tạo ra cho mình sự phát triển bền vững với một thể chế chính trị phải có cho một quốc gia độc lập do nhân dân làm chủ.
Đấy là bốn vấn đề sống còn đặt ra cho đất nước ta hôm nay.
Tựu trung lại (a) đất nước ta đang sống trong một thế giới có những thay đổi và thách thức rất gay gắt của cục diện đa cực, (b) phải đối phó với một Trung Quốc bước vào thời kỳ mới quyết liệt bá chiếm Biển Đông, (c) bản thân nước ta cũng đang đòi hỏi phải có sự thay đổi triệt để để phát triển. Do đó có thể kết luận:
Đất nước ta dứt khoát phải thoát ra khỏi sự kìm kẹp của ý thức hệ, vươn lên tự do dân chủ, để tìm đường đi vào một thời kỳ phát triển mới trong một thế giới đã chuyển giai đoạn và trong tình hình Trung Quốc đang đặt nước ta trước những thách thức mới.
Cho phép tôi kêu gọi: Hễ là người Việt Nam, xin mỗi chúng ta hãy mở to mắt nhìn thẳng vào bốn vấn đề sống còn như vậy đang đặt ra cho đất nước hôm nay, đòi hỏi đất nước ta phải thay đổi toàn diện để giải quyết thành công.
Nhìn thẳng vào những đòi hỏi khách quan và tất yếu như thế đang đặt ra cho đất nước, hy vọng mỗi chúng ta sẽ quyết định được hành động của mình: Việt Nam nhất thiết phải thay đổi, sống hay là chết!
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 15-6-14