MÊNH MÔNG THẾ SỰ ĐỂ GIÓ CUỐN ĐI
SỐ 27
Tương Lai
Những ngày cuối năm miên man trong suy ngẫm
về những diễn biến, những sự kiện của năm 2017, nỗi ám ảnh của hình tượng và tứ
thơ của nhà thơ Pháp lại cứ trĩu nặng trong đầu mà đôi lần đã dẫn ra trong mênh mông thế sự :
Giữa mùa phản phúc
Tối đen tù ngục
Suối đã đục dòng,
Chỉ lệ còn trong
Vào mỗi cuối năm, người ta hay điểm lại những
diễn biến lớn của thế sự trong năm bằng cách quy vào trong biểu đồ sự kiện theo
dạng nổi bật nhất thu hút được sự chú ý của công luận trong và ngoài nước. Là
người ngồi một chỗ rất ít bước ra khỏi nhà, chỉ qua chiếc máy tính và câu chuyện
bên ấm trà của bạn bè đến chơi mà nắm thông tin từ những cuộc luận bàn thế sự, ếch
ngồi đáy giếng, sao có thể cao giọng sơ kết, tổng kết tình hình mà dựng lên sơ
đồ, biểu đồ khái quát.
Đã thế, tin trên mạng truy cập qua máy tính
thì loạn xà ngầu, hay có, dở có, thật giả khó phân, vàng thau lẫn lộn, lại
không có điều kiện kiểm chứng. Còn tin trên báo chính thống, trên màn hình tivi
thì cùng một kiểu, một giọng của “quanh
quẩn mãi chỉ vài ba dáng điệu, tới hay lui cũng ngần ấy mặt người”. Tệ hai
hơn là cây gậy chỉ huy thò ra quá trắng trợn, chọc thủng trang báo, vạch nát
màn hình, nên dù có đúng đôi phần thì một
tin mười ngờ, không cần kiểm chứng vì “đi
vào đi ra vẫn thằng cha lúc nãy” mặt nhẵn như chùi, thì kiểm cái nỗi gì cho
phí thời gian.
Dân chúng thì đã thật mục sở thị trò bịp
bơm nói dối không chỉ một lần, không chỉ mười lần, mà trăm lần,vạn lần theo kiểu
sáng đúng, chiều sai, sáng mai lại đúng
của chủ trương, chính sách và những lời rao giảng, những phát ngôn liều lĩnh, dốt
nát mà ai đó mỉa mai bằng khái niệm “phát
ngôn ấn tượng” từ nơi chóp bu, khiến cho lòng tin của dân đã bị cuốn theo
dòng nước lũ của ngôn từ bịp bợm khái niệm bị đánh tráo, ngày càng dồn dập với
sức tàn phá khủng khiếp!
Vậy thì chẳng nhẽ gác bút, đậy bàn phím máy
tính, ngồi nhâm nhi ly cà phê để tự an ủi “lão giả an chi” sao? Khốn nỗi, chính
ngay khái niệm “lão giả an chi” trong gốc gác lại là một thôi thúc hành động của
nhà tư tưởng Trung Hoa thời cổ đại mà “mênh
mông thế sự” đã từng đề cập.Khổng tử muốn
xây nên một xã hội mà người già có thể an hưởng tuổi già, bạn bè tin nhau, lấy
chữ tín mà đối đãi với nhau, con trẻ được chăm sóc khiến cho chúng biết ngưỡng
mộ, nhớ đến cha ông. Vậy thì "Lão giả
an chi, bằng hữu tín chi, thiếu giả hoài chi" là một định hướng tích cực, một lý tưởng
sống đấy chứ, đâu phải là một lời khuyên đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ, rằng khôn
cũng gật rằng khờ cũng vâng.
Để cho con cháu biết kính
trọng và nhớ đến [thiếu giả hoài chi]
thì thế hệ cha anh hôm nay phải biết xua gậy đi trước để thúc giục lớp trẻ phải
thấm thía nỗi khổ nô lệ, đau đớn vì thân phận chư hầu, nhục nhã vì đất nước lạc
hậu, lạc điệu về thể chế chính trị giữa một thế giới văn minh, kinh tế văn hóa,
khoa học công nghệ thua kém các nước trong khu vực, đành phải làm quân cờ trong
cuộc chơi giữa các nước lớn.
Không đủ điều kiện đưa ra
những con số thống kê, những sơ đồ khái quát sự kiện, những biểu đồ về diễn biến
báo hiệu một chiều hướng sắp tới từ những thảm trạng đã qua, nhưng vẫn có thể bằng
phân tích logic của sự vận động đã diễn
ra, lý giải thảm trạng đókhông chỉ bằng bộ
óc của một người nghiên cứu mà còn từ trái
tim của một công dân biết rõ nghĩa vụ của mình với tổ quốc, lương tâm không phải
hổ thẹn với nhân dân để nói về cảm nhận
năm 2017. Tôi cố làm điều đó.
Cảm nhận ấy được khái quát
lại trong hình tương thơ
“Giữa mùa phản
phúc
Tối đen tù ngục”
trong “Hành khúc” của nhà thơ Pháp thời Paris bị
phát xít Đức chiếm đóng đang có sức lay động mãnh liệt, trở thành nỗi ám ảnh có
sức rọi chiếu về trạng thái ngột ngạt, bức bối khi suy ngẫm về cuộc sống đang
diễn ra trong năm 2017.
Suối đã đục dòng
Chỉ lệ còn trong
Quả vậy. Nhưng “chỉ lệ còn trong” [ nguyên văn tiếng
Pháp là “Les larmes seules furent claires] thì cho dù “nước mắt là ngôn ngữ câm lặng của đau buồn” như Voltaire từng nói
thì xóa được dòng nước mắt khỏi trái tim mình là điều quá khó! Vì thế đành phải
mượn hình tương thơ của Aragon để bằng sự ám ảnh khôn nguôi ấy mà nói lên cảm
nhận chủ quan rất riêng tư về “suối đã đục
dòng” giữa “mùa phản phúc, tối đen tù
ngục” trong tầm nhìn khái quát về năm 2017.
Thực ra, cái tứ thơ về dòng “suối” trong tự nhiên và “nước mắt” của con người không chỉ có
trong thơ của Louis Aragon. Hình ành từng xao động lòng người được gợi ra trong
“Thề Non Nước” của Tản Đà
[1889-1939], một thi sĩ làm gạch nối thế kỷ XIX sang thế kỷ XX trong thi ca Việt
Nam với “khát vọng thoát ly ra ngoài cái
tù túng, cái giả dối, cái khô khan của khuôn sáo… Cái buồn chán của Tiên sinh
cũng là cái buồn chán của một người trượng phu. Thở than có nhưng không bao giờ
rên rỉ” như Hoài Thanh viết trong Thi nhân Việt Nam.
Non cao những
ngắm cùng trông
Suối khô dòng lệ chờ mong
tháng ngày
Hình tượng thơ vượt ra khỏi nỗi niềm cá
nhân, không chỉ là thân phận một con người, mà là cảm khái về nỗi niềm dân tộc.
Ở đây dòng suối và dòng nước mắt quyện làm một nhằm biểu đạt trạng thái của cảm
xúc trong nỗi khắc khoải “Suối khô dòng lệ
chờ mong tháng ngày. Ở đây không là suối và nước mắt với sức biểu đạt dữ dội
khi phản ánh trạng thái ngột ngạt dồn nén của sự phẫn nộ “giữa mùa phản phúc, tối đen tù ngục” với sức truyền cảm có tính trực
tiếp hơn nên nỗi ám ảnh cũng đậm đặc hơn, “thời sự” hơn trong thơ Aragon, nhưng
sức lay động tâm hồn, nhất là với những tâm hồn nhạy cảm thì “suối khô dòng lệ chờ mong” của Tản Đà giục
giã một cách thế tồn tại có trách nhiệm với đất nước vào buổi ấy. Nó kín đáo
ươm mầm cho sự dấn thân cứu nước trong niềm khắc khoải của khát vọng “nước đi ra bể lại
mưa về nguồn”.
Trong cảm nhận hình tượng nghệ thuật thì
tùy theo cảm hứng và nhận thức của từng người, không ai giống ai. Cảm nhận về
thời cuộc thì cũng na ná vậy thôi. Yếu tố cá nhân vẫn có vai trò quyết định.
Tùy theo trình độ, tầm nhìn và bản lĩnh của người dấn thân và người chọn cách đứng
ngoài cuộc, người đã vượt qua được sự sợ hãi và người lẩn tránh hiện thực theo
dáng dấp của con đà điểu rúc đầu vào cát, mà có cách nhìn, cách biểu đạt. Phải
chăng vì vậy mà “suối lệ chờ mong”
chưa đủ sức làm bật dậy những người đang ngái ngủ hoặc tuy thức nhưng bị dìm
sâu trong chính sách ngu dân và những tuyên truyền lừa mỵ bịp bợm của giới cầm
quyền muốn có một bầy cừu tuân phục nên“suối lệ” phải chuyển thành “huyết lệ”
như Phan Bội Châu trong
Bâng khuâng đỉnh núi chân ngàn
Khói tuôn
khí uất, sóng cồn trận đau”
của “Lời huyết lệ gởi về trong nước” [Hải ngoại huyết thư”].
Ở
đây cũng là non cao, cũng là dòng lệ nhưng đã biến thái thành “đỉnh núi, chân ngàn”, thành “sóng cồn trận đau” mới đủ sức lay động.
Dòng huyết lệ của chí sĩ Phan Bội Châu cuộn đau về đất nước đang quằn quại dưới
ách ngoại bang. Dòng nước mắt ấy hòa với máu trong huyết quản của người yêu nước,
thương nòi, quyết không chịu làm nô lệ.
Phải chăng vì thế mà Albert Camus lại đòi hỏi
“Con người phải sống và sáng tạo. Sống
cho đến mức rơi lệ”! Có lẽ nhà văn Pháp, giải Nobel văn chương năm 1957 muốn
điễn đạt một khát vọng sống, một cách thế sống xứng đáng với con người.
Những
ai đã “sống cho đến mức rơi lệ” qua
năm 2017 của một nước Việt Nam đang từng bước tiến gần đến sự thật nhục nhã
được mở đầu với mật ước Thành Đô sẽ càng hiểu rõ lời cảnh báo của Nguyễn Cơ
Thạch đã đưa ra: “một thời kỳ Bắc thuộc
lần thứ hai bắt đầu”. Cho nên không lạ gì khi Nguyễn Cơ Thạch buộc phải rời
ghế Bộ trưởng Ngoại giao trước đòi hỏi của Trung Quốc thời Giang Trạch Dân và
được Nguyễn Văn Linh cung cúc tận tụy chấp hành. Từ đó, xuôi theo năm tháng của
các kỳ đại hôi đảng cộng sản Việt Nam, nổi rõ lên là từ đại hội 8, và trắng
trợn phơi bày là từ đại hội 10, qua đại hội 11 đến đại hội 12 với Nguyễn Phú
Trọng, sự lệ thuộc vào Trung Quốc là nét nổi bật “giữa mùa phản phúc, tối đen tù ngục”, hằn rõ trên diện mạo của xã
hội Việt Nam, đè nặng lên đời sống tinh thần của những người Việt Nam có lương
tri, nhất là giới trí thức và thế hệ trẻ.
Phải
chăng phản phúc và tù ngục là hình ảnh có sức khái quát rất
cô đọng về những gì diễn trong năm 2017. Sự phản phúc của những kẻ, với nhiều
lý do khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp, hữu ý hay vô tình đã tiếp tay cho kẻ
thù của dân tộc đang nhe nanh, múa vuốt tiếp tục thực hiện mưu toan bành trướng
mà cha ông chúng đã làm. Hãy chỉ nói đến một hiện tượng được lặp đi lặp lại:
ngoài chuyến thăm của hoàng đề họ Tập, cứ mỗi lần có một sứ thần thiên triều
đến Hà Nội là mỗi lần in đậm dấu ấn thái thú Tàu muốn phục dậy đế chế lên bán
đảo hình chữ S nhìn ra Biển Đông, nơi phô bày bộ mặt bẩn thỉu của “siêu cường
hung đồ”, con quỷ Frankenstein thế kỷ XXI.
Thì đó, chuyến vi hành
của tướng Phạm Trường Long, nhân vật quyền lực số 2 trong quân đội TQ đến Việt
Nam dạo tháng 7 vừa rồi đã nói thẳng vào mặt những lãnh đạo chóp bu của Việt
Nam rằng "toàn bộ các đảo ở Biển Nam Hải [là tên gọi Trung Quốc dùng để chỉ Biển
Đông] đã thuộc lãnh thổ Trung Quốc kể từ thời thượng cổ". Trước đó vài
ngày, Trung Quốc lại tiếp tục kéo giàn khoan HD-981 ra biển Đông, tới vị trí rất
gần bờ biển Việt Nam nhằm gây áp lên các dự án thăm dò dầu khí của Việt Nam
trong khu vực, những dự án mà theo chúng đã đặt ra một tiền lệ rất nguy hại cho chiến lược của Trung Quốc ở biển
Đông.
Vì thế, ngày 21/7 trước khi đến
Việt Nam, tên tướng họ Phạm đã ra lệnh chiến khu phía Nam TQ "đẩy mạnh công tác chuẩn bị đấu tranh quân sự,
tập trung tăng cường huấn luyện quân sự thực chiến hóa", nhằm "phát huy sức mạnh tinh nhuệ để phục vụ trong
thời khắc quan trọng". Có thể nói, đây là lần đầu tiên kể từ ngày
thành lập nước CHNDTH năm 1949 mới có một chỉ thị "sẵn sàng chiến đấu"
ở mức độ cụ thể như vậy đối với hướng Biển Đông, là do từ trước đến giờ ở biển
Đông Trung Quốc chưa từng phải đối mặt với cục diện như hiện tại. Và cũng do
đó, Nguyễn Phú Trọng và bộ sậu của ông ta đã nhục nhã và hèn hạ chấp nhận việc
tạm ngừng khoan dầu theo hợp đồng đã ký kết với tập đoàn Epson của Tây Ban Nha,
bồi thường thiệt hại cho họ với một số tiền không nhỏ mà có người đã tính ra là
gấp 10 lần số tiền Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí đem đầu tư vào Ngân hàng Đại
dương!
Trung Quốc bằng mọi thủ doạn
quyết ngăn cản Việt Nam thăm dò dầu khí tại bãi Tư Chính trên thềm lục địa phía
Nam của Việt Nam. Đơn giản là vì dự án Cá Voi Xanh gần với quần đảo Hoàng Sa và
nằm trong đường 9 đoạn mà Trung Quốc đơn phương áp đặt lên bản đồ biển Đông
trong yêu sách chủ quyền của mình.
Cũng phải nói thêm rằng
ngoài chuyện dầu khí, Trung Quốc còn muốn độc chiếm các nguồn lợi khác ở Biển
Đông. Khai thác cá là một ví dụ. Cần biết rằng hơn một nửa số tàu đánh cá trên thế giới hoạt động ở
biển Đông. Theo các chuyên gia “Ở biển Đông, cá có thể đẻ trứng
trong vùng đặc quyền kinh tế của một nước, sống thời non trẻ trong vùn đặc
quyền kinh tế của một nước khác, và sống phần lớn thời trưởng thành trong
vùng đặc quyền kinh tế của một nước khác nữa. Đánh bắt quá mức hoặc hủy hoại
môi trường tại bất kỳ điểm nào trong chuỗi này sẽ ảnh hưởng nặng nề đến tất cả
những người sống xung quanh biển. Toàn bộ biển Đông đang chao đảo bên bờ vực của
một cuộc suy sụp nghề cá, và cách duy nhất để tránh nó là thông qua hợp tác đa
phương trong các vùng biển đang bị tranh chấp. Trung Quốc đã khước từ nhiều cuộc
hội nghị quốc tế thuong thảo về vấn đề gay cấn này.
Khi Trung Quốc ngang ngược
tuyên bố về “chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo ở biển
Đông và vùng biển liền kề” chính cũng là để trắng trợn
độc quyền hoặc giành giật phạm vi khai thác nguồn lợi béo bở này. Bill Hayton,
tác giả cuốn sách The South China Sea: The Struggle for Power in Asia [Biển Đông: cuộc tranh giành quyền lực ở châu Á],
đã nói thẳng ra điều đó: “Trên thực tế,
Trung Quốc đang cầm súng chĩa vào đầu ngành công nghiệp đánh bắt cá ở Đông
Nam Á mà nói rằng này hãy tham gia vào cách bố trí quản lý cá của chúng
tôi hoặc chúng tôi sẽ ăn hết mọi thứ”.
Bộ mặt ghê tởm của
“siêu cường hung đồ” như danh xưng mà báo chí thế giới đặt cho đế chế Tập Cận
Bình đang phơi bày trước thế giới. Một sự phản kháng toàn cầu [global backlash]chống lại
siêu cường hung đồ đó đang hình thành và ngày càng dâng cao. John Pomfret, từng là trưởng văn phòng báo Washington Post tại Bắc Kinh, vừa cho đăng trên tờbáo này ngày
19.12.2017 bài viết“The global backlash against China is growing”phân tích sâu sắc vấn đề nói trên. Phản ứng
chống lại Trung Quốc không chỉ bó hẹp trong các nước ở phương Tây. Những quốc
gia có quan hệ gần gũi với Trung Quốc cũng đã bắt đầu nổi giận với cách đối đãi
trịch thượng của Bắc Kinh như là một phần của chương trình hạ tầng “Một vành
đai, một con đường” mà trong Tuyên bố Việt-Trung vừa rồi đã hết lời ca ngợi.
Vì vậy, không có gì khó hiểu khiTrung Quốc
rất e ngại việc Việt Nam lập quan hệ đối tác với một công ty dầu khí của Mỹ, đặc
biệt là với công ty mà Ngoại trưởng Mỹ Rex Tillerson từng lãnh đạo. Chính
Tillerson đã nhấn mạnh giải pháp cứng rắn của Mỹ ở biển Đông là chặn đường tiếp
cận tới các đảo nhân tạo của Trung Quốc và không cho phép Trung Quốc tiếp tục cải
tạo biển Đông.
Điều này đã phần nào giải thích tại sao tiếp
theo việc tập đoàn Tây Ban Nha phải ra thông báo ngưng tham gia khoan thăm dò tại
lô 136-3 thì “Cá Voi Xanh cũng đang mắc cạn”
như báo chí đã đưa tin. Tại sao? Xin hãy hỏi ông Nguyễn Phú Trọng, người vừa
hân hoan ký tuyên bố chung Việt-Nam-Trung Quốc ngày 13.11.2017: “Sự phát triển của nước này là cơ hội của nước
kia”. Mà như Trung Quốc đã nói rõ: mọi quyền lợi ở biển Đông lại là “lợi ích cốt lõi” và ảnh hưởng đến “nền tảng quản lý đất nước” của Đảng cộng
sản Trung Quốc thì, đã là “cùng chung vận
mệnh” lẽ nào ông Trọng không vứt bỏ lợi ích của dân tộc, tạm gạt sang một
bên chủ quyền đất nước, để chiều lòng người đồng chí láng giềng cùng chung ý thức
hệ XHCN của ông!
Khi đặt Cương lĩnh đảng của ông lên trên Hiến
pháp, đảng viên mà nói tới tam quyền phân
lập và xã hội dân sự thì bị khai trừ bất chấp đó là những thành tựu của văn
minh thì tất nhiên bộ máy bạo lực bỏ tù
trước hết những ai dám lên án Trung
Quốc xâm lược nhưng lại sẵn sàng phục hồi chức vụ vụ cho những ai cung cúc
tận tụy với Tàu.
Hãy dẫn ra một ví dụ nhỏ nhưng sự lộ liễu
và tai ngược lại lớn đã được trưng ra trước mắt mọi người như việc phục chức
cho Nguyễn Viết Hiệp là một hành đông trêu ngươi! Nó cho thấy rất rõ những
thanh củi nào được đút vào lò của ông Trọng và thanh củi nào thì được rút ra. Nguyên là tổng giám đốc Công ty Cổ phần Vận
tải đường sắt Hà Nội, sau vụ lùm xùm mua 160 toa xe cũ của Tàu đã
bị ông Đinh La Thăng cách
chức thì đâykhông chỉ là chuyện “giậu đổ bìm leo” mà là nó đúng “quy trình”
trong cái chuỗi chống tham nhũng.
Bởi vậy mà báo Pháp luật Thành phố HCM ngày 30.12.2017 giật cái tít rất đậm “Tổng giám đốc bị
ông Đinh La Thăng cách chức về lại ghế cũ”
dẫn lời của một quan chức “Ông Nguyễn Viết Hiệp là người có năng lực,
tâm huyết, việc Hội đồng quản trị công ty bổ nhiệm chức vụ trên đối với ông
Hiệp là hoàn toàn hợp lý”. Thì nhất định là phải có năng lực và tâm huyết rồi. Lăn lội sang tận Cục Đường sắt Côn
Minh (Trung Quốc) để móc ngoặt mua toa cũ thì không tâm huyết với bạn sao có
thể làm được. Không tâm huyết với người “cùng
chung vận mạng” để chia ngọt sẻ bùi với “người đồng chí láng giềng cùng chung ý thức hệ XHCN” thì làm sao có
đủ khả năng gánh vác trọng trách được!
Đồng thời với
việc phục chức cho những người tâm huyết với mối quan hệ ăn chia mờ ám với Tàu ấy,
thì lại phải bỏ tù những người tâm huyết với sự nghiệp của nước của dân vì ngược
với “đường lối sáng suốt” của đảng gắn bó, cùng chung vận mệnh với kẻ thù. Vì
thế, càng ngày những bản án bỏ túi xử rất nặng những người yêu nước chống xâm
lược, đòi quyền làm người, đòi quyền dân chủ tự docàng tăng lên cho thấy sự bối
rối, hoảng loạn của thế lực cầm quyền dự cảm được làn sóng phẫn nộ đang dâng
trào.
Bật đèn xanh
cho một lũ đâm thuê chém mướn đánh đập, đàn áp dã man những người trong tay
không có một tấc sắt chỉ đấu tranh hòa bình như “Mẹ Nấm”, như Trần Thị Nga, những
người mẹ đang nuôi con nhỏ, khiến công luận không chỉ trong nước mà cả nước
ngoài phẫn nộ lên án là báo hiệu một sự sụp đổ không thể tránh khỏi.
Khi đặt mục
tiêu thanh toán đối thủ chính trị qua chiêu bài chống tham nhũng, vốn là một vấn
đề gây nhức nhối trong tâm trạng xã hội, đánh trúng đòi hỏi bức xúc của quần
chúng nhân dân cần phải loại bỏ bọn “ăn của
dân không trừ một thứ gì” để tranh thủ họ đứng về mình như Tập Cân Bình đã
làm, ông Nguyễn Phú Trọng đã không thấy được giữa thực tế Việt Nam hiện nay và
bối cảnh Tập Cận Bình thực hiện chủ nghĩa “tân chuyên chế”[neo-authoritarianism]
rồi “tân toàn trị” [neo-totalitarianism] có một khoảng cách quá xa, và sự khác
biệt về tương quan lực lượng cũng là quá lớn.
Việc bất chấp lợi ích dân tộc, thể diện quốc
gia và luật pháp quốc tế, cho người sang tận Berlin để bắt cóc Trịnh Xuân Thanh
“hy sinh đối ngoại vì mục tiêu đối nội”
là một ví dụ tiẻu biểu cho điều vừa nói từng được thể hiện trong khẩu hiệu “còn đảng còn mình”. Đây là một sự đánh
tráo khái niệm để lừa bịp những người nhẹ dạ cả tin nhằm che bớt di việc bám giữ
cái ghế quyền lực đang vừa giành được trong cuộc tranh bá đồ vương, sẵn sàng
dày xéo lên lợi ích của đất nước, vận mệnh của dân tộc. Chính điều đó đang làm
ruỗng nát đảng cầm quyền, dẫm đạp lên công lao, uy tín của những người đi trước
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, làm rạng rỡ hình ảnh
Việt Nam trong con mắt của khu vực và thế giới. Đau đớn hơn, những gì đã và
đang diễn ra đã làm ruỗng nát lý tưởng cao đẹp mà thế hệ những người ưu tú, bộ
phận tinh hoa của đất nước đã dấn thân, máu của họ đã thấm đẫm trên mảnh đất
này. Sự phản bội này thật khó mà đo đếm. Chính sự phản bội đó đã làm ruỗng nát
lòng tin của thế hệ trẻ về sứ mệnh thiêng liêng đối với sự nghiệp bảo vệ tổ quốc,
sự nghiệp mà xương máu của cha anh họ đã xây đắp nên.
Đành rằng nói đến giặc ngoại xâm, nhất là
giặc ngoại xâm truyền kiếp là chạm vào điểm nhạy cảm bậc nhất trong tâm thế Việt
Nam. Nhưng những gì mà tuổi trẻ đã tận mắt chứng kiến sự tồi tệ của một bộ phận
không nhỏ trong thế lực cầm quyền cúi đầu khuất phục kẻ xâm lược, thậm chí biến
thành tay trong của chúng, thì nói đến nghĩa vụ đối với tổ quôc khi giặc xâm lược
từ phương Bắc tràn vào chắc không còn đủ sức thuyết phục. Chủ động tạo ra kịch
bản ấy không thể không có trong toan tính của thế lực hiếu chiến Bắc Kinh.
Cùng với việc mua chuộc và thu phục bộ phận
chóp bu là cách đỡ tốn kém nhất trong chiêu võ Tàu cổ truyền để biến một quốc
gia thành chư hầu của chúng, thì làm rệu rã ý chí quật cường của thế hệ trẻ, tạo
ra mối nghi kỵ, hủy hoại lòng tin của họ để không chịu biến mình làm vật hy
sinh cho một nhóm lợi ích mạo danh đất nước. Họ sẽ khước từ cầm súng chống giặc
ngoại xâm khi mà giặc nội xâm đang hàng ngày hằng giờ đục khoét đất nước. Mưu
toan thâm hiểm này không thể không lồng vào “quan hệ hữu nghị truyền thống và đối tác hợp
tác chiến lược toàn diện” vừa được ký kết. Cứ soi vào những gì đã và đang
diễn ra trên đất nước ta năm qua sẽ hiểu rõ điều đó. Vấn đề này đã phân tích
trong bài trước chắc không phải nhắc lại.
Đương nhiên mức độ
nhận thức của mỗi người, mỗi tầng lớp xã hội không hoàn toàn như nhau. Tùy vào
chỗ đứng, tùy vào hoàn cảnh, trong đó có điều kiện kinh tế, tài chính, điều kiện
gia đình, vị thế xã hội, những mối quan hệ chằng chéo phức tạp mà có cách nhìn
và sự cảm nhận khác nhau. Đặc biệt là khi bộ máy tuyên truyền của chế độ toàn
trị phản dân chủ với mạng lưới rộng khắp mà Goebbels của bộ máy phát xít Đức
còn thua xa như bài viết mới đây đã phân tích, thì một bộ phận khá lớn công
chúng chịu sự tác động còn khá nặng nề. Tuy rằng, với những thành tựu của công
nghệ thông tin, mạng lưới internet nối mạng toàn cầu thì việc bưng bít thông
tin khó bề thực hiện đã hạn chế bớt sự tiếp nhận một chiều, hạn chế bớt thông
tin lừa mị bịp bợm. Chỉ có điều, không thể không thấy một sự thật là trình độ
dân trí tuy có được nâng lên, nhưng nếu so với đòi hỏi của phát triển, đối chiếu
với trình độ chung của thế giới thì chúng ta vẫn còn quá lạc hậu.
Bỗng nhớ lại
tác giả của câu thơ vừa trích dẫn “suối
khô dòng lệ chờ mong tháng ngày”. Cách đây đúng 90 năm, năm 1927, cũng vào
thời điểm ra đời của kiệt tác “Thề Non Nước” Tản Đà đã viết dưới dạng câu đối:
“Dân hai nhăm triệu ai người lớn
Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con”
Ngót một thế kỷ
đã trôi qua, bao nhiêu nước chảy qua cầu, bao nhiêu “dòng lệ chờ mong” đã chảy thành suối, thành sông, qua bao nhiêu
thác, bao nhiêu ghềnh, qua bao “đỉnh núi
chân ngàn” nỗi đau của nhà thi sĩ nằm vắt ngang thế kỷ XIX và thế kỷ XX còn
day dứt chúng ta hôm nay không? Riêng người đang viết bài này thì vẫn cảm thấy
xốn xang nỗi khắc khoải của nỗi niềm mong ngóng “nước đi ra biển lại mưa về nguồn” của một tấm lòng ưu tư về vận nước
ở đầu thế kỷ XX.
Nay thì dân số
nước ta đã xấp xỉ một trăm triệu, xếp thứ 13 của thế giới, đâu còn là một nước
nhỏ? Tài nguyên của ta cũng từng là “rừng vàng, biển bạc” đúng nghĩa của nó đấy
chứ. Cái bán đảo hình chữ S với hơn 3000 km bờ biển sát mép Thái Bình Dương qua
Biển Đông, nơi mà 45% trong số hơn 90% lượng vận
tải thương mại của thế giới thực hiện bằng đường biển phải đi qua đây. Lượng dầu
lửa và khí hóa lỏng được vận chuyển qua vùng biển này lớn gấp 15 lần lượng
chuyên chở qua kênh đào Pa-na-ma. Hàng năm, có khoảng 70% khối lượng dầu mỏ nhập
khẩu và khoảng 45% khối lượng hàng hóa xuất khẩu của Nhật Bản được vận chuyển
qua Biển Đông. Đặc biệt cần lưu ý là khoảng 60% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu
và 70% lượng dầu mỏ nhập khẩu của Trung Quốc được vận chuyển bằng đường biển
qua Biển Đông.
Nhắc lại những con số trên để càng hiểu thêm mối nguy cơ mà dân ta đang phải
đối mặt là lớn đến thế nào. Không có một sức mạnh nội sinh của ý chí tự lực tự
cường thì không thể nào tránh khỏi họa xâm lăng của kẻ đang muốn độc chiếm Biển
Đông. Ngặt một nỗi, ý chí tự lực tự cường ây lại đang bị chế độ toàn trị phản
dân chủ đang chịu sự thao túng nặng nề của Bắc Kinh làm cho thui chột, không sớm
nhận ra thì có thể dẫn đến sự tan rã.Trước hết, chính sự thao túng ấy cũng đang
làm ruỗng nát đảng cầm quyền. Biểu hiện
rõ nhất của sự ruỗng nát đó là dùng bạo lực để duy trì cái ghế quyền lực vốn đã
rệu rã đang lung lay khi mà lòng dân phẫn nộ, phản đối ngày càng dâng cao.
Hãy chỉ dẫn ra
hai trường hợp. mà những sự kiện nổi bật như cuộc đấu tranh giữ đất và đòi công
lý của nhân dân xã Đồng Tâm. Rồi cuộc đấu tranh bất bạo động chống lại BOT
không hợp lý được tự phát bùng lên, khởi đầu từ BOT ở trạm Cai Lây lan ra nhanh
chóng với tính cộng đồng rất cao, năng động, linh hoạt và rộng khắp của anh em
lái xe “bạn hữu đường xa”. Một sự thay đổi về chất của lòng phẫn nộ và tin thần
phản kháng khiến cho cái nhà nước toàn trị phản dân chủ lo ngại tìm cách đối
phó. Sự lúng túng như gà mắc tóc trong các giải pháp đưa ra khiến xu hướng bạo
lực ngày càng được đẩy tới như một cứu cánh nhằm cứu vãn tình hình nguy ngập.
Thế nhưng, càng gia tăng bạo lực để răn đe và trấn áp người yêu nước thì lại
càng đẩy tới cuộc đấu tranh chống Trung Quốc xâm lược.
Cuộc đấu tranh
này lai gắn làm một với cuộc đấu tranh đòi quyền làm người, đòi dân chủ, đòi tự
do. Đơn giản chỉ là vì nhân quyền thể hiện trước hết trong quyền tự do, nhưng tự
do không thể là thứ được ban phát mà phải đấu tranh để giành lấy. Cho nên,
không thể có tự do nếu không có dân chủ. Đây là hai mặt của một vấn đề. Không
thể có nhân quyền, dân chủ và tự do nếu để cho đất nước rơi vào tay lũ xâm lược,
trở thành một chư hầu rơi vào thảm trạng Bắc thuộc lần thứ hai. Điều đó giải
thích lý do của sự gắn bó không thể tách rời giữa cuộc đấu tranh chông Trung Quốc
xâm lược với cuộc đấu tranh đòi nhân quyền, đòi dân chủ và tự do.Chính cái
logic đó giải thích tại sao bạo lực trước hết chĩa vào những người yêu nước chống
Trung Quốc xâm lược cũng như cuộc thanh toán tàn khốc đối thủ chính trị được tập
trung nhằm vào những người không chịu thần phục Bắc Kinh. Nhưng cũng chính cái
logic đó lại dẫn đến cái hệ quả tất yếu của nó là càng điên cuồng sử dụng bạo lực
sẽ càng khơi dậy ngọn lửa quật cường không chịu khuất phục. Đó là giải pháp đổ
thêm dầu vào lửa. Càng hung hãn trong tuyệt vọng ra sức đàn áp, đánh đập, bắt bớ,
bỏ tù càng làm cho ngọn lửa căm thù bốc lên.
Giữa mùa phản phúc, tối đen tù ngục dưới một triều đại toàn trị phản dân chủ sao chép được từ
mô hình triều đại hoàng đế họ Tập dìm đất nước trong tăm tối đang “khói tuôn khí uất, sóng cồn trận đau” ngọn
lửa ấy sẽ rọi chiếu ánh sáng, xua tan bóng tối. Ngọn lửa ấy cũng sẽ thiêu cháy
chế độ toàn trị phản dân chủ vào thời đoạn lịch sử đen tối khi “suối đã đục dòng, chỉ lệ còn trong”. Và rồi
những giọt “lệ còn trong” ấy khi chảy
ngược vào trong, ta mới biết mùi vị của nó, là đắng cay, là chua chát như thế
nào.
Nhưng cũng
chính những giọt nước mắt chảy ngược vào trong ấy đang cật vấn chúng ta: phải
suy nghĩ, phải làm gì “giữa mùa phản
phúc, tối đen tù ngục” này. Liệu chúng ta có chia sẻ với ý tưởng “Con người phải sống… Sống cho đến mức rơi lệ”của
Albert Camus, người đã “đưa ra ánh sáng những vấn đề đặt ra cho lương tâm loài
người ở thời đại chúng ta".
31.12.2017