Nguyễn Đình
Cống
1- Đặt vấn đề
Người trong
xã hội có thể chia thành 2 cấp: Trên và Dưới. Cấp trên gồm những người cầm quyền,
thống trị, quản lý, lãnh đạo, làm ra luật pháp v.v...Cấp dười là dân thường, bị trị, sống và làm việc
theo luật pháp v.v…Quá trình của xã hội có thể làm phát sinh nhiều loại mâu thuẩn,
quan trọng nhất là giữa dưới và trên.
Mâu thuẩn
dưới-trên làm mất ổn định xã hội. Thông thường nó được phát hiện từ cấp dưới,
phản ảnh trực tiếp lên trên hoặc qua
truyền thông đại chúng. Lúc này, tùy vào trình độ, đạo đức và thiện chí của cấp
trên mà có thể xẩy ra các tình huống (TH) khác nhau.
TH 1- Cấp
trên có trình độ, đạo đức, thiện chí, sẽ đề ra những biện pháp đổi mới hoặc cải
cách cần thiết, giải quyết mâu thuẩn, đưa
sự ổn định lên tầm cao hơn. .
TH 2- Cấp trên kém đạo đức và thiện chí sẽ tìm cách đối
phó bằng thủ đoạn gian dối, lừa bịp mà không thật lòng cải cách. Lúc này, với
thể chế thực sự dân chủ thì cấp dưới chờ
đến bầu cử, dùng lá phiếu để loại bỏ bọn đang cầm quyền.
TH 3- Cấp
trên kém đạo đức và thiện chí, nhưng giữ được độc quyền thống trị nên ngoan cố.
Lúc này nếu cấp dưới có đủ sức mạnh thì sẽ xẩy ra cuộc đấu tranh quyết liệt. Cấp
dưới dùng biện pháp hòa bình như đình công, biểu tình.Cấp trên, nếu khôn ra thì
thương lượng, nhượng bộ, nếu đểu cáng sẽ dùng lực lượng vũ trang để đàn áp.
Nhưng khi cấp dưới đã tập hợp được, nêu cao được chính nghĩa thì lực lượng vũ
trang sẽ quay về với nhân dân. Sự đàn áp cuối cùng sẽ thất bại.
TH 4- Cấp
trên vừa ngu, tham và độc tài mà cấp dưới chưa đủ lực lượng để đấu tranh thì sẽ
phải chịu đựng áp bức trong một thời gian dài. Tình trạng này sẽ kết thúc bằng
1 trong 2 kịch bản sau . TH 4A- Đến một lúc nào đó trong nhân dân sẽ xuất hiện
các anh hùng hào kiệt, đủ sức tập hợp để làm cách mạng, dùng vũ trang lật đổ bọn
thống trị. Lúc này khó tránh khỏi nội chiến. TH 4B- Tình hình chia rẽ trầm trọng,
bọn cấp trên càng giàu có thì nhân dân càng đói khổ, đất nướcthối nát, chia rẽ,
nước ngoài sẽ nhảy vào. Thế là tạm thời mất độc lập. Lúc này đất nước như thế
nào sẽ phụ thuộc vào cấp trên mới lập.
2- Tình hình VIệt Nam
Sau khi kết
thúc chiến tranh, thống nhất lãnh thổ ( 4/1975) VN bước vào thời kỳ suy sụp tạm
thời. Mâu thuẩn trên- dưới trầm trong. Để giải thich và tìm biện pháp tháo gỡ
đã hình thành 2 lề khác nhau, chủ yếu đối
lập nhau. Đó là Lề Đảng và Lề Dân . Lề Đảng thuộc cấp trên, tương đối rõ, gọi là A. Lề
Dân thuộc cấp dưới, đầu tiên chỉ mới là những cá nhân phản biện, rồi đến một
vài tổ chức xã hội dân sự, gọi là B.
Về cuộc chiến
20 năm (1955-1975), A cho là chiến tranh giải phóng, chống đế quốc Mỹ xâm lươc,
B cho rằng chủ yếu lànội chiến vì ý thức hệ, Mỹ không xâm lược mà chỉ là can
thiệp để ngăn chặn CS. Ngày 30 tháng 4/1975, A cho là ngày giải phóng, B cho là
ngày kết thúc chiến tranh.
Đối xử với
bên bại trận , A cho rằng phải gọi chúng là ngụy quân, ngụy quyền, bắt đi cải tạo,
nói rằng đi học tập vài chục ngày rồi giam cầm người ta nhiều năm. Việc đó B
cho là lừa dối, vô nhân đạo. Về hòa hợp, hòa giải dân tộc A muốn rằng kẻ bại trận
phải khuất phục và hòa hợp với người chiến thắng, vẫn khăng khăng rằng ngụy
quân, ngụy quyền là kẻ thù giai cấp và dân tộc.
B lại muốn người chiến thắng nâng đỡ và hòa hợp với người bại trận, họ
là anh chị em cùng dòng máu
Giải thích
sự khó khăn, kiệt quệ về kinh tế từ sau 1975, A cho là do chiến tranh, bị cấm vận,
bị bao vây, bị thế lực thù địch phá hoại. B cho là tại những sai lầm trong chủ
trương và sự lãnh đạo của ĐCS., cụ thể là hợp tác hóa nông nghiệp ở miền Bắc,
là cải tạo kinh tế tư nhân ở miền Nam,
là cấm chợ ngăn đường trong toàn quốc, là đóng cửa với thế giới rộng lớn..
Về người di
tản, thuyền nhân, bỏ nước ra đi, A cho rằng đó là bọn thù địch, phản quốc, B cho rằng họ là những nạn nhân của chế độ
CS.
Vào thời
gian 1986, mâu thuẩn lên đỉnh điểm. Lãnh
đạo của Đảng không còn có thể bưng tai , bịt mát để tiếp tục lừa dối nhân dân.
Bên trên buộc phải đổi mới, phải mở cửa, phải bỏ cấm chợ ngăn đường v.v… Đó chỉ mới là thực hiện
một phần nhỏ của TH 1. A cho rằng Đảng đã rất sáng suốt làm đổi mới, B nói rằng
chẳng qua là sửa sai, là quay lại cái cũ.
Từ 1990 trở
đi, kinh tế có phát triển, đời sống nhân dân có được cải thiện, nhưng đất nước
lại lâm vào tai họa mới. Đó là nạn phá
hoại tài nguyên và môi trường, là nạn tham nhũng, nạn mua quan bán chức tràn
lan, nạn xuống cấp về văn hóa, đạo đức, giáo dục, nạn chảy máu chất xám, nạn làm ăn thua lỗ của kinh tế quốc doanh và
nợ nần chồng chất.
Tình trạng
thực tế đất nước là rõ ràng, không thể che giấu, nhưng A và B lại giải thích và tìm ra nguyên nhân
trái ngược nhau.
A cho rằng
đất nước vẫn phát triển , GDP tăng cao, uy tín trên trường ngoại giao là tốt,
có nhiều đối tác chiến lược, Đảng vẫn kiên trì đường lối đúng đắn và sáng suốt
là theo Mác Lê để xây dựng CNXH. Đảng vẫn ra nhiều nghị quyết để làm trong sạch
vững mạnh, nhân dân vẫn tin vào Đảng, đất nước được như ngày nay là nhờ công ơn
trời biển của Đảng. Nguyên nhân của mọi tai họa là do : Bên trong thì một số đảng viên, cán bộ thoái hóa, biến
chất, tự diễn biến, tự chuyển hóa, bên ngoài thì thế lực thù địch tìm cách phá
hoại, lật đổ. A cho rằng Đảng vừa lãnh đạo, vừa cầm quyền, chỉ cần làm cho Đảng
trong sach là có thể giải quyết được mọi chuyên, A tuyên bố Đảng xây dựng chính
quyền của dân, do dân, vì dân, Đảng chống lại Tam quyền phân lập.
B cho rằng
tuy kinh tế có phát triển, đời sống của dân có được nâng cao, nhưng đất
nước vẫn mắc vào vòng luẩn quẩn. So với các nước cùng hoàn cảnh thì VN bị tụt hậu
nhiều. GDP chỉ là tiếng hảo, nhờ vào các xí nghiệp 100% vốn nước ngoài ( FDI),
Chủ nghĩa Mác Lê có nhiều độc hại, con đường XHCN là vô vọng, bế tắc. Nguyên
nhân của mọi tai họa mà nhân dân phải gánh chịu là do sự độc tài toàn trị của Đảng,
do những sai lầm của lãnh đạo Đảng. B qui kết Đảng đang thống trị và đã cướp
quyền của dân. Vấn đề cần và quan trọng là cải cách thể chế, là phải thay đổi từ đảng thống trị thành đảng cầm
quyền, phải xây dựng chế độ Tam quyền phân lập.
Về quan hệ
với Trung cộng. A cho rằng đó là chỗ dựa, là tấm gương, là không thể xa rời. B đánh giá Tàu chệc là kẻ
thù truyền kiếp, là bọn bành trướng đểu cáng..
Kể ra còn
nhiều những nhận định và đánh giá khác nhau. Hình như giữa A và B cũng có
vài điểm chung. Bên nào cũng tự nhận là
yêu nước, là vì quyền lợi của dân tộc, vì một đất nước VN phát triển thịnh
vương. Bên nào cũng tự cho mình mới thực sự đại diện cho nhân dân. Nhưng rồi 2
bên lên án nhau, cho rằng mình mới thật
lòng, còn bên kia là xạo, là giả dối.
Cả hai lề đều
tự cho rằng mình nói đúng sự thật, nhưng phải chăng mỗi bên đều chỉ mới đưa
ra một phần của nó. Hình như A chủ yếu
đưa ra phần bên ngoài của sự việc với mục đích tuyên truyền, còn B đưa ra phần
bên trong, phần bản chất để phản biện.
A và B, bên
nào nói bên ấy nghe, chưa có cách gì tìm ra tiếng nói chung. Đúng ra nhân dân
phải có tiếng nói phân xử, nhưng nhân dân đang bị khống chế, Quốc hội chủ yếu
thuộc lề A nên khó có công tâm. Xét về tương quan lực lượng vật chất thì A mạnh
hơn B hàng ngàn, hàng vạn lần, nhưng về tinh thần thì B ở thế tiến công, không
sợ gì A mặc dầu nhiều lúc bị chính quyền đàn áp khốc liệt. Còn Atuy một số hung
hăng nhưng thiếu tự tin, chưa có ai dám nhận đối thoại với B để tìm chân lý. Thế
là chia rẽ, mà chính A tạo ra sự chia rẽ
đó.
Cứ mỗi lần
đại hội Đảng có đánh giá tình hình và vạch phương hướng. Phần lớn dựa theo A .
Những đề xuất và góp ý của B chủ yếu bị vứt bỏ, bị quy kết là phá hoại, là thù
địch. Trong khi đó B lại quy kết lãnh đạo Đảng là ngoan cố, bảo thủ, chỉ vì lợi
ích nhóm, dẫn dân tộc đi sai đường.
Như vậy xã
hôi VN đang ở vào giai đoạn đầu của TH 3 hoặc TH 4, nghĩa là cấp trên không có đủ trình độ, kém đạo đức, thiếu
thiện chi, độc tài, tham lam, trong khi cấp dưới chỉ mới xuất hiện lực lượng đấu
tranh lẻ tẻ, chưa có tổ chức, chưa có lực lượng tinh hoa lãnh đạo.
3- Mong ước của người dân
Dân Việt đã
trải qua nhiều năm chiến tranh, đã tốn nhiều xương máu, nên đại đa số chỉ muốn yên ổn làm ăn, không muốn “đấu
tranh”, không thích đụng đến chính trị. Điều này là chấp nhận được khi đất nước có cấp trên là tầng
lớp tinh hoa với trình độ cao, đạo đức tốt, thiện chí lớn. Nhưng với một cấp
trên kém năng lực, thiếu đạo đức, cố duy trì sự thống trị, chỉ muốn biến người
dân thành công cụ, đẻ cho họ dễ bề sai
khiến, được thoải mái làm giàu, mà dân vẫn cam chịu thì rồi sẽ dẫn đến tai họa
lớn của TH 4-
Nhưng rồi dần dần dân Việt cũng hiểu ra được điều này
và lại mong ước…
Phần đông
mong được xẩy tra TH 1, như đã xẩy ra một phần nhỏ vào năm 1986. Những người Việt
có hiểu biết ở trong và ngoài nước đều đồng ý với nhau rằng phải cải cách thể
chế chính trị đi cùng cải cách kinh tế.Lãnh đạo ĐCS cũng nói đến đổi mới chính
trị, đặt câu hỏi đổi mới cái gì và như thế nào. Nhưng có lẽ lãnh đạo CS bị buộc
phải nói tới đổi mới chính trị và chỉ muốn đổi mới vài thứ vụn vặt mà không đụng
gì đến thể chế.
Một số người
rất có tâm huyết trông chờ vào sự “Bỗng nhiên có một số lãnh đao giác ngộ”Thế rồi
những người đó, cá nhân hoặc tập thể, bằng nhiều con đường, họ viết thư, kiến
nghị, góp ý, gửi cho cá nhân lãnh đạo và các tổ chức, gửi cho toàn thể đảng
viên và toàn dân.Trong các văn bản đó,
ngoài những phân tích sâu sắc, những góp ý chân thành, thì cũng thỉnh thoảng gặp
những lời lên án đanh thếp. Tất cả họ đều mong ước bên trên sẽ chọn lưa TH 1 để giải quyết mâu thuẩn. Thế nhưng
toàn bộ các văn bản đó đều không được trả lời ( không biết những ai đã được
xem).
Một số người
chống cộng tích cực cho rằng “ cộng sản chỉ có thể bị đánh đổ chứ không thể cải
tao”. Họ phê phán và cười nhạo cách làm “kêu gọi CS tự sửa mình”. Thực ra cần
phân biệt chủ nghĩa CS với các đảng viên CS. Chủ nghĩa CS là thứ cần đánh đổ,
nhưng đảng viên CS lại cần được tranh thủ, Trong số họ vẫn còn nhiều người có
lương tâm, có trí tuệ, có dũng khí. Đánh đổ CS tốt nhất là từ bên trong. Lãnh đạo
CSVN đang thấy rõ và rât lo việc này nên mới ra sức kêu gọi “ chống tự diễn biến,
chông tự chuyển hóa”.
Mong ước của người dân là cấp trên có đủ trí
tuệ và đạo đức để theo TH 1. Nhưng xác suất để xẩy ra quá thấp. Cũng rất khó xẩy
ra TH 2 vì VN chưa có nền dân chủ thật sự. Mong rằng sẽ xẩy ra vào khoảng giữa
của TH2 và TH 3.
4- Các con đường của ĐCSVN
Tôi đã đọc
khá nhiều sách liên quan đến thể chế
chính trị cộng sản từ nhiều nguồn, trong đó chọn ra 4 tác phẩm đáng quan tâm :
+ Thất bại
lớn ( sự sụp đổ của CS), sách của Brzezinski, xuất bản năm 1988, nhóm Phan Ngọc,
Phạm Khiêm Ích dịch ra tiếng Việt.
+Cách mạng
1989- sách của Sebestyen ( sựsụp đổ của chế độ xô viết )- Trần Quang Nghĩa dich
ra tiếng Viêt
+Tại sao
các quốc gia thất bại, công trình nghiên
ứu của Acemoglu và Robinson - XB ở Mỹ 2012, Nguyễn Quang A và Nguyễn Thị Kim Chi dịch ra tiếng Việt 2016 .
+ Giai cấp
mới , sách của Milovan Djilas- Phạm
Nguyên Trường dịch ra tiếng Việt
Theo
Brzezinski thì chế độ cộng sản tất yếu sẽ sụp đổ. Nguyên nhân chủ yếu là kém
trí tuệ nên vận dụng sai các quy luật khách quan, bịa đặt ra những điều giả dối
rồi cho rằng đó là chân lý và đem lừa người khác. Với ĐCSVN, ngoài bản chất kém
trí tuệ còn mắc phải bệnh kiêu ngạo CS sau khi đã thắng trong 4 cuộc chiến
tranh..
Lãnh đạo và
đa số đảng viên CS cho rằng bằng đường lối
và quy hoạch cán bộ, bằng các nghị quyết về nêu gương, về tăng cường kỷ luật, về
học tập và làm theo Hồ Chí Minh v.v…họ có thể làm cho Đảng trong sạch và vững mạnh,
từ đó củng cố sự lãnh đạo, nâng cao vị thế đảng cầm quyền, thực hiện được kế hoạch
xây dựng CNXH vì hạnh phúc của toàn dân.. Thật ra đó là một nhầm lẫn và lừa dối
vô cùng lớn. Vì sao nhầm? . Vì chỉ đụng đến vài hiện tượng bên ngoài mà chưa đụng
gì đến bản chất. Còn lừa dối ở đâu ?. Lừa rằng vì hạnh phúc toàn dân, thật ra
chỉ vì quyền lợi của các nhóm lợi ích và ý thức hệ CS.
Trước mắt
ĐCSVN có 2 con đường để lựa chọn : bảo thủ và cải cách.
Con đường bảo
thủ là cứ giữ tính trạng hiện tại, kiên trì Mác Lê, phụ thuộc vào Trung cộng, vẫn
bưng tai, bịt mắt để không nghe những lời phản biện và tiếng rên xiết của dân
oan, không thấy hết những mặt bi đát của thực tế xã hội, không muốn biết nguyên
nhân sâu xa của các tai họa. Chỉ thích nghe lời tụng ca, chỉ thich nhìn cờ hoa
chào đón. Như thế thì khả năng xẩy ra TH
4 là rất lớn. CSVN, bên cạnh một số công
lao nào đó ( sẽ được lịch sử đánh giá), đã phạm nhiều sai lầm, nhiều tội đối với
dân tộc. Nếu để xẩy ra TH 4 thì ĐCS còn mắc thêm tội rất nặng và sẽ bị loại bỏ
trong ô nhục.
Con đường cải
cách, trước hết phải có thiện chí, phải biết lắng nghe và nhìn sâu vào bên trong
sự thật.(Ngoài mồm Đảng cũng to tiếng kêu gọi nhìn vào sự thật, nhưng với con mắt
ý thức hệ, giỏi lắm chỉ thấy được vài hiện tượng bên ngoài). Hãy mở ra các cuộc
đối thoại để nghe cho tường tận những quan điểm và đề xuất của B, thấy rõ được
những nhầm lẫn của A ( trong đó có đường lối cán bộ phản dân chủ, phản tiến bộ),
hãy thực tâm mở rộng dân chủ thì mới mong có được người tài giỏi làm việc nước.
Phải thực hành cải cách đường lối và tổ chức để trở thành một đảng chính trị cầm
quyền (nên tham khảo Đảng Hành động nhân dân của Singapore và trường hợp nước
Mông Cổ).
Con đường cải
cách là đáng mongđợi, nhưng khả năng thực hiện được rất thấp vì để làm được thì
trong Đảng ( đặc biệt là trong lãnh đạo cấp cao) phải xuất hiện những đảng viên
có trình độ, có dũng khí. Mà trong hơn 80 năm tồn tại Đảng đã kịp thời làm thui
chột các phẩm chất ấy. Con đường bảo thủ được Đảng thích hơn, phù hợp với các
nhóm lợi ích, nhưng sẽ mang lại tai họa lớn cho đất nước, nhân dân không mong đợi
và phản đối.
Khả năng xẩy
ra nhiều hơn trong thực tế, không phải do lựa chọn mà là do tình thế tạo ra. Đó
là con đường của TH 3 khi Đảng ngoan cố, bảo thủ, dân tích cực đấu tranh. Đảng
khôn ra thì thương lượng, đối thoại, chon cách thỏa hiệp. Ở Ba Lan, Đông Đức,
Tiệp Khắc, Đảng buộc phải thỏa hiệp ở bước
cuối cùng, như thế là bị mất gần hết oai tín. ĐCSVN nên khôn ngoan hơn, chọn
cách thỏa hiệp dần dần từng phần, nên “ rút lui từng bước, nhường lại từng bộ
phận” trước cuộc đấu tranh cho một nền dân chủ chân chính của nhân dân. Như vậy
nếu có lui cũng là trong danh dự. Hơn nữa, khi Đảng có những cải cách được nhân
dân đánh giá tốt thì vẫn có thể được tín nhiệm để cầm quyền. Nếu mà ngoan cố,
kiêu ngạo thì sẽ nhận kết quả thảm khốc như ở Rumani.năm 1989.
5-Sự hoạt động của cấp dưới
Xin tạm để
riêng ra những người Việt, ngay từ đầu đã có nhận thức khác về chế độ cộng sản
và chống lại. Chỉ xin bàn đến những người đang chịu sự thống trị hoặc có liên quan đến chế độ hiện hành.
Trong nhiều
năm trước đây người dân được giáo dục, được tuyên truyền để tuyệt đối tin tưởng
và trung thành, để biết ơn sâu sắc Đảng
CS lãnh đạo. Mặt khác Đảng cũng tạo ra sự trừng phạt, sự đàn áp để không những dân mà đảng viên cũng nơm nợp lo
sơ bị quy kết, bị nghi ngờ. Tình trạng đó làm cho phần lớn người dân cúi đầu theo Đảng, đa số
cam chịu an phận thủ thường. Một số ít còn cho là khôn ngoan khi bưng tai bịt mắt
trước bất công xã hội, chỉ lo giữ được yên ổn cho mình và gia đình.
Thế rồi, do
thực tế phủ phàng đập vào mắt, do ảnh hưởng của những phát hiện sai lầm và độc
hại củai Mác Lê mà dần dần xuất hiện các
phản biện, tạo nên lực lượng B. Ban đầu hễ chính quyền phát hiện được cá nhân B
nào đều ra tay đàn áp, bỏ tù, trừ khử.
Tưởng rằng như thế sẽ nhanh chóng dẹp yên. Nhưng cách làm đó đã không đàn áp được
mà càng ngày B càng phát triển. Nhờ Internet sự lan tỏa của B càng nhanh và mạnh.
Đã xuất hiện
các tổ chức xã hội dân sự, những người hoạt động dân chủ đã nối tiếp được các thế hệ từ già đến trẻ.
Đã xuất hiện một số tấm gương rất đáng nẻ phục, đặc biệt là các bạn trẻ có trí
thức, có dũng khí. Tuy vậy lực lượng chưa đủ mạnh, còn phân tán, chưa có ngọn cờ
tập hợp.
Có nhận định
rằng ở VN hiện nay, ngoài ĐCS ra chưa có một lực lượng chính trị nào có thế đứng
ra cầm quyền. Chính vì những điều vừa nêu màmột số người, tuy thấy rõ độc hại của
Mác Lê, thấy rõ sự bảo thủ, sự yếu kém của lãnh đạo CS, nhưng vẫn còn trông
mong vào sự đổi mới của họ.
Những điều
vừa nêu là có thực, nhưng chỉ là tạm thời. Tình hình sẽ biến chuyển để tạo ra
thay đổi. Trong nhân dân và đặc biệt trong giới trẻ càng ngày càng tăng mấy điều
sau : 1-Mất lòng tin vảo ĐCS, CNXH, Mác Lê. 2-Tin vào sự cần thiết của một thể
chế dân chủ thực sự chứ không phải dân chủ giả hiệu. 3-Không cam chịu để bị biến
thành nô lệ mà dám chấp nhận đấu tranh, dám chấp nhận hy sinh vì tương lai của
dân tộc.
Hoạt động của
cấp dưới có thể phân thành 2 mảng lớn : của trí thức và của quảng đại.
Hoạt động chính của trí thức nhằm vào việc thức
tỉnh. Trước hết là thức tỉnh nhân dân theo hường nâng cao dân trí, chấn hưng
dân khí, làm cho đại đa số người dân hiểu rõ nhân quyền và dân quyền. Đồng thời
là thức tỉnh những kẻ lầm đường lạc lối ở phía Abằng những bài phản biện, những
đối thoại. Thức tỉnh các lãnh đạo CS có khó hơn, đó là viết thư, kiến nghi, góp
ý. Việc làm này chủ yếu là thể hiện tinh thần, hiệu quả đối với lãnh đạo tuy thấp,
nhưng cũng gây ra vài tác dụng nào đó.
Hoạt động của
quảng đại, đó là của các tổ chức xã hội dân sự, các nghiệp đoàn độc lập, các cá
nhân đơn lẻ hoặc liên kết với nhau. Hoạt động chính là tổ chức đấu tranh hòa
bình, là chính thức tỏ thái độ phản kháng những bất công, áp bức, chống lại những
việc làm sai trái vi phạm nhân quyền, hủy hoại môi trường v.v…Hiện tại các lực
lượng còn yếu, chưa thống nhât, nhưng mỗi tổ chức, mỗi lực lượng tăng cường hoạt
động sẽ đến lúc thu được thắng lợi.
6-Tiệm tiến và
bước nhảy
Sự phát triển
của mọi sự vật thường theo 2 cách : Tiệm
tiến và bước nhảy. Tiệm tiên là dần dần, từng bước một từ ít đến nhiều, từ thâp
lên cao. Bước nhảy là đột xuất, bước ngoặt, xẩy ra tương đối nhanh. Để xẩy ra
bước nhảy cần có thời cơ và sự tịch lũy
năng lượng tốt. Cách mạng tháng 8 là một
bước nhảy. Nhưng rồi dân tộc Việt đã bỏ lỡ rất nhiều thời cơ thuận lợi để tạo
bước nhảy, để phát triển chỉ vì
ĐCSVN đã tích lũy quá nhiều năng lượng xấu,
phần lớn năng lượng tốt của dân tộc đã bị thui chột, bị hạn chế..
Đấu tranh để
cải cách xã hội của VN theo tiệm tiến là việc các lực lượng dân chủ, nhờ vào lực
lượng của mình và sự hỗ trợ của các thế lức tiến bộ, dựa vào pháp lý và đạo lý
để đấu tranh, buộc thế lực thông trị nhượng bộ từng bước, chuyền hóa dần dần
cho đến khi đạt được thể chế dân chủ mong muốn. Con đường này khá dài và cũng đầy
gian khó, nó phụ thuộc chủ yếu vào tương quan lực lượng hai bên.
Bước nhảy,
khi xẩy ra sẽ giúp rút ngắn quá trình, nhưng nó mang đặc tính ngẫu nhiên của thời
cơ. Liệu dân Việt có thể trông chờ vào những thời cơ nào.
Thời cơ từ
bên ngoài như sự sụp đổ hoặc rối loạn lớn của Trung cộng . Việc này có thể xẩy
ra với xác suất thấp.
Thời cơ bên
trong, từ trên. Đó là sự xuất hiện một nhân vật trong lãnh đạo ĐCS như kiểu Goc
Ba Chốp với chính sách Cải tổ và Minh bạch . Con người này cần có đủ tài năng,
bản lĩnh chính trị để tập hợp lực lượng. ( VN đã từng có Trần Xuân Bách dậy
non, Trung quốc từng có Triệu Tử Dương yểu mệnh).
Thời cơ từ dưới.
Đó là sự xuất hiện người lãnh đạo có tài năng, từ quần chúng, như Walesa của Ba
Lan hoăc Menđêla của Nam Phi.
Thời cơ từ
một sự cố lớn do con người hoặc thiên nhiên tạo ra.
Thời cơ là
có thật. Những người bình thường trông chờ và cầu mong. Những người tài trí, bản
lĩnh cao sẽ hoạt động để tạo ra nó. Đó là cái vòng “ thời thế tạo anh hùng và
anh hùng tạo thời thê”. Một câu hỏi lớn : Khi cho rằng thời thế tạo anh hùng
thì từ đâu sinh ra thời thế, Khi nói anh hùng tạo thời thế thì từ đâu sinh ra
anh hùng.
Một câu trả
lời chung chung là : Khí thiêng sông núi hun đúc tạo ra tinh hoa và anh hùng. Đó là thuyết Địa linh
nhân kiệt. Lại hỏi tiếp : Ở đâu sinh ra khí thiêng sông núi ấy, làm sao để biết
nơi nào có nhiều, có ít, không có, hoặc
đã bị cạn kiệt, hoạt động của con người tác động đến khí thiêng sông núi như thế
nào.
7- Câu cuối
Cải cách xã
hội quan trọng nhất là cải cách thể chế chính trị. Việc làm này là hoạt động của
con người, nhưng phải chăng chịu một chi phối rất lớn của Khí thiêng sông núi,
một lĩnh vực còn nhiều điều bí ẩn. Nhiều năm tìm tòi, suy nghĩ về vận mệnh của
dân tộc, thấm thía với mấy câu của Nguyễn Du
: “Lại mang lấy một chữ tình. Khư khư mình buộc lấy mình vào trong. Vậy
nên những chốn thong dong. Ngồi không yên ổn, đứng không vững vàng. Ma đưa lối,
quỷ dẫn đường. Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi. Hết nạn nọ đến nạn kia…”
Phải chăng
dân tộc Việt đang phải chấp nhận cuộc “ trả nghiệp chướng”. Tin rằng không sớm
thì muộn, dân tộc sẽ trả được, trả xong nghiệp chướng và tương lai tươi sáng
đang chờ đón. Chắc chắn như vậy.
NĐC