Vương Thuyên
Lời
đầu
Biển người biểu tình ở quảng trường TAM ngày 2-6-1989, Getty Images, AFP |
Sự kiện Thiên An Môn (TAM) hay cuộc thảm sát đêm
3 rạng sáng 4-6-1989 đến nay (2019) là đúng 30 năm. Ba Tổng Bí thư (TBT)
đảng cộng sản Trung Quốc (TQ) đà lần lượt nối tiếp. Lẽ ra chính
quyền TQ đã có cơ hội đánh giá lại sự sai lầm và công khai xin lỗi
quần chúng. Thế nhưng, chính quyền, ngược lại, càng siết chặt an
ninh, tiếp tục đàn áp những tiếng nói bất đồng chính kiến, sách
nhiễu những người còn sống sót, kiểm soát mọi thảo luận công khai,
thậm chí còn thách thức như lời tuyên bố của bộ trưởng bộ Quốc
phòng Nguỵ Phụng Hoà (Wei Fenghe) ở Singapore vừa qua theo đó chính
quyền đương thời đã lấy một quyết định ''đúng'' trong sự kiện TAM.
Trong khi đó, dân chúng ở Hongkong, Đài Loan và bạn bè thế giới vẫn
còn tưởng niệm những người bị thảm sát trong ngày 4-6.
Ai là người ra lệnh cho quân đội nổ súng vào
đám sinh viên biểu tình? Mọi người
nghĩ ngay đến Đặng Tiểu Bình dưới áp lực của nhóm bảo thủ đứng
đầu là thủ tướng đương thời Lý Bằng. Giang Trạch Dân cũng được xem
là ngưởi có bàn tay ''đẩm máu'' ở cương vị tân TBT đảng vào cuối
tháng 5-1989.
Bài viết này phác hoạ lại bối cảnh đương thời
cùng diễn biến của sự kiện TAM cách đây đúng ba mươi năm.
Bối cảnh chính trị TQ trước sự kiện Thiên An Môn.
Đại hội lần thứ 13 được tổ chức trong tháng 10-1987 sau khi TBT Hồ Diệu Bang
(Hu Yaobang) bị nhóm bảo thủ
cách chức ngày 25-12-1986 vì bị
lên án quá yếu kém trước sự đòi hòi tự do dân chủ của sinh viên học sinh và trí
thức ″trưởng giả''. Hai nhân vật đầu não Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping) và Trần
Vân (Chen Yun) ra khỏi thường vụ Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
nhưng ông Đặng còn tiếp tục giữ chức chủ tịch Quân ủy Trung ương và họ Trần chủ
tịch ban Cố vấn. Ở thường
vụ Bộ Chính trị có 5
người mới là: Triệu Tử Dương
(Zhao Ziyang) [1], TBT Đảng, Lý Bằng
(Li Peng), thủ tướng, Hồ Khởi Lập (Hu Qili), đặc trách ý thức hệ, Kiều Thạch (Qiao Shi), bí thư Uỷ ban Kiểm tra kỷ luật
Đảng và Diêu Y Lâm (Yao Yilin), đặc trách kinh tế. Nếu Kiều Thạch là người ''đứng giữa'' thì Triệu Tử
Dương và Hồ Khởi Lập thuộc phái
canh tân, Lý Bằng và
Diêu Y Lâm thuộc trường phái bảo thủ. Thế quân bình giữa các nhóm ở chóp bu, trên lý thuyết,
được tôn trọng.
Ở Bộ Chính trị, ngoài
5 ủy viên thường vụ nói trên còn có 12 ủy viên chính thức và một ủy viên dự
khuyết được phân công là: Vạn Lý (Wan Li), chủ tịch Quốc hội, Điền Kỷ Vân (Tian
Jiyun), phó thủ tướng, Lý Tích Minh (Li Ximing), bí thư thành ủy Bắc Kinh,
Giang Trạch Dân (Jiang Zemin), bí thư thành ủy Thượng Hải, Lý Thụy Hoàn (Li
Ruihuan), bí thư thành ủy Thiên Tân, Dương Nhữ Đại (Yang Rudai), bí thư tỉnh ủy
Tứ Xuyên, Lý Thiết Ánh (Li Tieying), đặc trách cải tổ kinh tế, Dương Thượng Côn
(Yang Shangkun), chủ tịch nước kiêm bí thư Quân ủy, Ngô Học Khiêm (Wu Xueqian),
bộ trưởng ngoại giao, Tống Bình (Song Ping), trưởng ban Tổ chức Đảng, Tần Cơ Vĩ (Qin Jiwei), bộ trưởng
quốc phòng, Hồ Diệu Bang (không được phân công), và dự khuyết Đinh Quan Căn
(Ding Guan-gen), bí thư Ban Bí thư.
Ban Bí thư lúc đó phần lớn do nhóm canh tân nắm nhưng không còn là cơ
quan công tác hàng ngày của Đảng mà chỉ là một ''cơ cấu bàn giấy'' của thường vụ và Bộ Chính trị.
Dù trên nguyên tắc là nhân vật số ''một'', họ Triệu bị ông Đặng và nhóm bảo thủ với những chức
vụ trọng yếu trong guồng máy của Đảng và nhà nước ( Ban Tổ chức Đảng, thủ tướng,
chủ tịch và phó chủ tịch nước, ngoại giao, quân đội, kinh tế vv..) bao vây và
canh chừng mọi hành động. Trong năm đầu (1988), Triệu Tử Dương không thành công
ổn định kinh tế. Vật giá ờ thành phố tăng hơn 40%, lạm phát tăng
18% so với năm trước trong khi thu hoạch về nông nghiệp bị giảm sút do
chính quyền trung ương không đầu tư đúng mức và chính quyền địa phương
đã bỏ rơi nông nghiệp, chỉ bỏ vốn đầu tư vào các ngành công nghiệp
tiêu thụ để mau có lợi. Hàng triệu nông
dân bỏ ruộng đi tìm công ăn việc làm ở đô thị. Đời sống công nhân và công chức ở thành phố càng thêm
khó khăn.
Ở Hội nghi
trung ương lần thứ 3 khoá 13 trong tháng 9-1987, ông Triệu, dưới áp lực
của nhóm bảo thú, buộc phải nhường cho Diêu Y Lâm đảm trách về kinh
tế. Sự thất bại về kinh tế của ông Triệu làm ông Đặng mất
tín nhiệm và số phận của ông trở thành bấp bênh.
Ngòi nổ là sự từ trần của Hồ Diệu Bang ngày 15-4-1989 mà dư luận cho là do có tranh cãi ở Bộ Chính trị. Đặc điểm
của ông Hồ là người rất bình dân trong giới sinh viên và trí thức vì ông được coi là người có tư tưởng cởi mở và biểu
tượng của cải cách dân chủ trong đảng. Sinh viên và trí thức có cảm giác là lý tưởng của họ đã bị Đảng phản bội
và dân chúng thì thất vọng vì TQ đã đi vào kinh tế thị trường mà chưa có dân chủ. Họ lấy
cớ tưởng niệm ông Hồ, xuống đường chiếm quảng trường TAM để đòi chế độ phải cải cách chính trị, mở rộng tự do báo chí,
chống tham nhũng như họ đã đòi trong mùa
đông 1986. Trong bảy tuần chiếm quảng trường, từ giữa tháng tư đến ngày 4 tháng
6-1989, họ đòi chính
quyền tiếp kiến để thỏa mãn nguyện vọng. Chính quyền trả lời bằng cách gán cho
họ là những phần tử ''bạo loạn phản cách mạng'' trên xã luận báo Nhân Dân ngày 26-4.
Thái độ hung hăng này là do Lý Bằng
và nhóm bảo thủ chủ xướng với sự đồng tình của ông Đặng trong khi Triệu Tử
Dương đang công du ở Bắc Triều Tiên. Trên thực tế, ông Đặng và nhóm thủ cựu già nua muốn dẹp phong trào đòi dân chủ của sinh viên. Ông Đặng còn bị ám ảnh đến tình trạng hỗn loạn thời kỳ ''Đại
cảch mạng văn hoá'' kéo dài trong 10 năm dưới thời Mao và đã đưa TQ
đến tình trạng kinh tế kiệt quệ. Ông Triệu, trái lại, muốn giải quyết
theo nguyên tắc dân chủ phù hợp với luật pháp. Trước sự ngoan cố của chính quyền,
sinh viên bắt đầu làm tuyệt thực vào ngày 13-5. Tình hình trở nên căng thẳng vì
sinh viên được các giới thành phần xã hội ủng hộ mỗi ngày càng đông trong khi chính quyền cần
phải giải toả quảng trường để tiếp đón tổng bí thư Liên Xô Mikhail Gorbachev
sang viếng thăm chính thức TQ trong hai ngày 15 và 16-5. Các nhà lãnh đạo Bắc Kinh đã từ lâu chuẩn bị chuyến
công du quan trọng này và họ thầm kín tưởng tượng Gorbachev sẽ ''quỳ'' trước ông Đặng
để xin lỗi việc Nikita Khruschev đã rút chuyên gia về nước trong năm 1960! Sinh
viên không những đã làm họ mất thể diện mà còn đặt hy vọng ở Gorbachev làm áp lực
họ để thực hiện sự trong sáng (glasnost). Do đó, sinh viên nhất định không rời
quảng trường nếu không được chính quyền tiếp kiến. Tình hình hoàn toàn bế tắc
trong khi số người biểu tình lên đến gần một triệu người vào ngày 17-5 và 1,2
triệu người ngày 19-5. Ngày 18-5, Lý Bằng
miễn cưỡng chịu tiếp đón
sinh viên nhưng một mực từ chối thoả mãn những yêu sách của họ. Sáng hôm sau,
Triệu Tử Dương đến quảng trường nghẹn ngào phát
khóc thành khẩn kêu gọi sinh viên đình chỉ
tuyệt thực và rời khỏi quảng trường nhưng thực sự ông và Hồ Khởi Lập đã bị Bộ Chính trị lên án
và cuối cùng cách chức ngày 21-5. Ngày 20-5, Lý Bằng ký sắc lệnh ban bố thiết
quân luật và cho 22 sư đoàn quân đội tiến vào Bắc Kinh. Bộ Chính trị hoàn
toàn bị chia rẽ và không còn đóng vai trò chủ đạo. Nhóm bô lão do ông Đặng đứng
đầu hoàn toàn thao túng thay Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Đảng chỉ định Giang Trạch
Dân thay Triệu Tử Dương ngày 27-5. Vào đêm 3-6 rạng ngày 4-6, quân đội được lệnh
cho nổ súng vào sinh viên làm nhiều ngàn người chết và bị thương. Cần nói thêm rằng, lúc ban đầu, quân đoàn 38 của
thủ đô có nhiệm vụ thi hành lệnh thiết quân luật nhưng bất tuân lệnh.
Người ta thấy cảnh quân đội và sinh viên thân thiện như tình nghĩa anh
em. Cuối cùng, ông Đặng buộc phải gọi quân từ các tỉnh xa về thủ đô
để đàn áp sinh viên. Đặc biệt quân đoàn 27 từ Thạch Gia Trang kéo về được xem là
hung hăn nhất vì binh lính gần như thất học chì biết mù quáng tuân lệnh cấp trên.
Vai trò quyết định của tám bô lão trong sự kiện Thiên An Môn.
Vào đầu năm 2001, ông Trương Lương (Zhang Liang), bí
danh của một đảng viên cao cấp ĐCSTQ đưa ra ngoài nước một bản tường thuật ngoài
500 trang còn được gọi là ''TAM Papers'' của những cuộc thảo luận giữa tám bô lão bảo thủ và giữa các thành viên thường vụ Bộ Chính trị đương thời
từ giữa tháng 4 đến đầu tháng 6-1989 trong sự kiện TAM. Bản tường thuật này được
dịch ra Anh ngữ và in thành sách và được hai giáo sư chuyên về TQ ông Andrew J. Nathan của đại học Columbia và ông
Perry Link của đại học Princeton duyệt y. Một bản tóm lược 17 trang sau đó được
tạp chí Foreign Affairs Mỹ đưa lên mạng và được báo chí trên thế giới trích dẫn
và đăng tải. Nhưng có lẽ giới báo chí Hoa ngữ đăng tải đầy đủ nhất vì nguồn tư
liệu là tiếng Hán và vì sự kiện nói trên có liên hệ đến tương lai vận mạng của
họ. Do đó, bản tường thuật của ngày 21 và ngày 27-5 được chép lại rất tỉ mỉ,
theo đó 8 bô lão mà đa số không còn chức vụ chính thức đã áp đặt, trái với điều
lệ của Đảng, ông Giang Trạch Dân ở chức TBT Đảng. Họ Giang, như theo bản tường thuật, được xem là
người ''dễ bảo''.
Theo bản tường thuật của ông Trương Lương, tám bô lão nhiều lần họp nơi
tư thất của ông Đặng ở phía sau Trung Nam Hải là: Đặng Tiểu Bình, Trần Vân, Lý
Tiên Niệm (Li Xiannian), Vương Chấn (Wang Zhen), Bành Chân (Peng Zhen), Bạc Nhất Ba (Bo Yibo), bà Đặng Dĩnh
Siêu (Deng Yingchao) và Dương Thượng Côn.
Như đã nói trên, ngoài ông Đặng là chủ tịch
Quân
ủy TƯ,
Dương Thượng Côn và Vương Chấn chủ tịch và phó chủ tịch nước, những người kia
không có chức vụ nào trong Đảng và nhà nước. Trần Vân và Bạc Nhất Ba dù là chủ
tịch và phó chủ tịch Ban Cố vấn nhưng không còn ở Ban Chấp hành trung ương Đảng
cũng như ông Đặng và Vương Chấn. Lý Tiên Niệm là cựu chủ tịch nước (1982-1987),
bà Đặng Dĩnh Siêu, goá phụ của cựu thủ tướng Châu Ân Lai, có lúc vào Bộ
Chính trị ở Đại hội thứ 12 (tháng 9-1982) đã ra khỏi cơ quan này trong năm 1985
trong khi Bành Chân là cựu chủ tịch Quốc Hội (1982-1987).
Ngày 21-5, sau khi thiết quân luật được
ban hành, tám bô lão nói trên họp tại tư thất của ông Đặng. Cuộc họp có
mục tiêu chỉ định người kế nhiệm
Triệu Tử Dương. Cuộc họp hoàn toàn trái ngược với điều lệ
Đảng vì muốn cách chức TBT phải họp đại hội đảng hoặc họp hội nghị trung ương đảng.
Trong buổi họp này, các bô lão rất hoang
mang không biết chọn ai làm TBT thay Triệu Tử
Dương. Đặng Tiểu Bình chọn Lý Thuỵ
Hoàn,
Trần Vân và
Lý Tiên Niệm chọn Giang Trạch Dân, Dương Thượng Côn chọn Kiều Thạch,
Bành Chân chọn Vạn Lý, Vương Chấn chọn Lý Bằng. Riêng Bạc Nhất Ba không chọn ai làm TBT mà chỉ đề nghị Tống Bình
vào thường vụ Bộ Chính trị. Người ta để ý ông Đặng không chọn Lý
Bằng.
Do không có đồng thuận, buổi họp
tiếp tục vào ngày 27-5. Lần này, Đặng
Tiểu Bình, Dương
Thượng Côn và bà Đặng Dĩnh Siêu nghiêng về phía Trần Vân và Lý Tiên Niệm. Thế là, Giang Trạch Dân được
''tuyển chọn'' một cách...bất hợp pháp !
Tiếp sau
đó là buổi
họp ngày 2-6 có mục tiêu giải toả hay ''quét sạch'' quảng trường bằng vũ lực. Buổi họp này có hai bô lão vắng
mặt là Trần Vân và bà Đặng Dĩnh Siêu nhưng có thêm ba uỷ viên thường
vụ Bộ Chính trị là Lý Bằng, Kiều Thạch và Diêu Y Lâm. Tất cả đều tán thành giải pháp dùng vũ lực để
''quét sạch'' quảng trường. Hai người có thái độ hung hăn nhất là Lý
Bằng và Vương Chấn.
Có bao nhiêu người bị thương vong và bị bắt?
Cho đến nay,
chưa có thông tin chính xác về số người bị thảm sát trong sự kiện
TAM. Phía chính quyền, người phát ngôn viên Viên Mộc ̀(Yuan Mu) đưa ra con số lố bịch nói theo
''thống kê sơ bộ'' chỉ có 300 người kể cả binh lính. Về binh lính,
Viên Mộc thổi phòng nói có đến 5000 ''bị thương''. Làm sao sinh viên
với hai bàn tay trắng có thể gây tổn thương cho nhiều binh lính như
thế? Hội Chữ thập đỏ TQ đưa ra con số từ 2600 đến 3000. Theo một tài
liệu mật của tình báo CIA Mỹ thu thập từ nguồn của nội bộ TQ và
được tạp chí Next Magazine Hongkong đăng tải theo đó có hơn 40 ngàn
người bị thương vong trong đó có 10454 bị giết (Petro Times, ngày
29-2-2016). Như vậy, số người bị thương là 28796 người. Con số 10 ngàn
người bị tử vong có lẽ sát gần thực tế vì cựu đại sứ Anh Alan
Donald ở Bắc Kinh năm 1989 cũng đưa ra con số này dựa theo nguồn tin
của một người bạn thân của ông đương là uỷ viên của Hội đồng nhà
nước TQ (BBC, ngày 25-12-2017). Số người bị bắt cũng chưa biêt rõ là
bao nhiêu. Riêng người sinh viên chặn xe tăng T-59 đi tuần hành trên đại
lộ Trường An được phóng viên Jeff Widener của Associated Press chụp ngày
5-6, có nguồn tin nói là Vương Duy Lâm (Wang Weilin) nhưng cũng
chưa xác định chắc chắn.
Số
phận của lãnh đạo sinh viên ra sao?
Sau ngày 4-6,
một danh sách bao gồm 21 thủ lãnh sinh viên được đăng trên báo Nhân Dân
để truy nã. Đó là: Vương Đan (Wang Dan), Ngô Nhĩ Khai Hy (Wu Er Kai Xi),
Sài Linh (Chai Ling, nữ), Phong Tòng Đức (Feng Congde), Vương Siêu Hoa
(Wang Chaohua, nữ), Lý Lộc (Li Lu), Trương Minh (Zhang Ming), Mã Thiếu Phương
(Ma Shaofang) vv..
Ngoại trừ
một số nhỏ sau một thời gian trốn tránh được đưa ra nước ngoài như
Ngô Nhĩ Khai Hy, Sài Linh, Phong Tòng Đức, Vương Siêu Hoa, hầu hết những
người khác đều bị bắt và̀ bị kết án từ 1 đến 4 năm tù. Sau đó,
một số sang định cư ở Hoa Kỳ khi tình hình trở nên ổn định. Ngô Nhĩ
Khai Hy và Vương Siêu Hoa định cư ở Đài
Loan. Vương Đan hai lần
bị bắt, lần đầu bị kết án 4 năm tù rồi bị bắt lại năm 1995 và bị
kết án 11 năm tù nhưng đến năm 1998 thì ''được'' trục xuất sang Mỹ
trước cuộc viếng thăm TQ của TT Clinton.
Trường hợp
của Lưu Hiểu Ba (Liu Xiaobo), người được giải Nobel Hoà Bình năm 2010
và qua đời tháng 7-2017 khá đặc biệt. Trước đó, ông được mời làm
giáo sư thỉnh giảng ở đại học Columbia và từ Mỹ trở về nước lúc
sinh viên đang làm tưởng niệm Hồ Diệu Bang vào giữa tháng tư. Ông được
sinh viên chọn làm trung gian giữa họ và quân đội. Khi tình hình trở
nên khẩn trương, ông khuyên sinh viên rời quảng trường để tránh đổ máu.
Sau ngày 4-6, ông bị kết án tù một năm rưỡi từ 1989 đến 1990 rồi bị
đưa đi ''cải tạo'' từ năm 1996 đến 1999 vì đã đặt vấn đề hệ thống
độc đảng. Sau khi ra tù, ông cùng một số bạn bè bí mật thảo một
Hiến chương yêu cầu dân chủ hoá chế độ, tôn trọng nhân quyền, thiết
lập nhà nước pháp quyền noi gương theo Hiến chương 77 của ông Vaclav
Havel Tiệp Khắc. Hiến chương được mệnh danh là Hiến chương 08 với 303
chữ ký của các giới trong xã hội. Một ngày trước bản Hiến chương 08
ra đời, ông bị bắt ngày 8-12-2008 và bi kết án 11 năm tù năm 2009 về
tội ''xuí giục lật đổ nhà nước''. Dĩ nhiên là chính quyền không cho
phép ông xuất ngoại để nhận giải thưởng Nobel Hoà Bình cũng như đi
chữa trị bệnh ung thư gan của ông ở giai đoạn cuối dù được nhiều
nước chấp nhận. Điều này cho thấy thai độ thù nghịch của Bắc Kinh
đối với những người có tham gia sự kiện TAM.
Lời cuối
Sự kiện TAM
là vết nhơ và bi
kịch lịch sử của TQ do Đảng cộng sản TQ gây ra. Bắc Kinh sau đó bị
cộng đồng thế giới gắt gao lên án. Hoa Kỳ và Liên Hiệp Châu Âu ra
quyết định cấm vận bán vũ khí cho một chế độ không ngần ngại hạ
sát sinh viên của mình. Ba mươi năm đã trôi qua, chính quyền của Tập
Cận Bình còn khắc nghiệt hơn thời kỳ Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào.
Mọi hành động, mọi thảo luận có liên quan đến sự kiện TAM đều bị
dập tắt. Chính quyền của ông Tập muốn xoá sạch mọi hình ảnh xấu xa
của cuộc thảm sát TAM trong ký ức của người dân.
Để kết luận,
xin nhắc lại lời lên án khắt khe của cựu TT Pháp François Mitterand khi ông
nói : ''Một chế độ, vì muốn được sống còn, trong bước đường cùng
buộc phải xả súng vào giới thanh niên mà họ đào tạo và đứng lên
chống lại vì lý tưởng tự̣ do là chế độ không có tương lai:'' [2]
Paris 4-6-2019
Chú thích
[1] Triệu Tử Dương (1919-2005) được Đặng Tiểu
Bình đề cử làm thủ tướng rồi TBT đảng. Sau sự kiện TAM, ông bị quản
thúc tại gia trong 15 năm cho đến khi qua đời. Trái với các TBT khác
khi qua đời, ông không được hưởng lễ tang cấp nhà nước.
Tệ hại hơn nữa, ông bị từ chối chôn ở nghĩa trang Bát Bảo Sơn (Ba Bao
Shan), nơi dành cho lãnh tụ cao cấp.
[2] Un régime
qui, pour survivre,
est en réduit à faire tirer sur la jeunesse qu'il a formée et qui se dresse contre lui
au nom de la liberté, n'a
pas d'avenir. Trích từ quyển
sách của tác giả Claude Martin: ''La diplomatie n'est pas un diner de
gala''. Editions de L'Aube,
2018, 932 trang, tr. 573.