GS Trần Quốc Vượng
Nước Việt Nam ta hiện là một quốc gia kém phát triển về mọi mặt, vừa lạc
hậu, vừa lạc điệu với một thế giới nhìn chung đã và đang phát triển rất nhanh,
đặc biệt từ nửa sau thế kỷ XX.
Tạm bỏ qua một bên mọi sự “giải thích”, nào đổ tội cho phong kiến đế quốc,
thực dân, bành trướng, thiên tai, địch họa, chiến tranh, cách mạng; nào viện
dẫn sai lầm chủ quan của những người cầm nắm vận mệnh quốc gia mấy chục năm
qua, v.v… tình trạng ấy là không bình thường, gây nên một bức xúc tâm lý, một
nỗi đau thân thể, một nhức nhối thân xác và tâm linh, buộc KẺ SĨ và NGƯỜI DÂN,
vừa gian khổ kiếm sống, vừa suy nghĩ đêm ngày, tìm cách khắc phục và vượt qua
tình trạng tủi nhục này…
Có ĐỘC LẬP rồi chăng, nhưng hoạ LỆ THUỘC vẫn luôn luôn mai phục, cả về mô
hình chính trị và sự phát triển kinh tế…
Có THỐNG NHẤT rồi chăng, nhưng mầm CHIA RẼ mọc rễ sâu xa, nào Bắc / Nam,
nào Cộng sản / không Cộng sản…
Điều chắc chắn, là NHÂN DÂN chưa có HẠNH PHÚC, TỰ DO thực sự.
Với biết bao hệ lụy của một cuộc chiến kéo dài, buộc ràng tới 3 thế hệ
người Việt Nam (và rất nhiều quốc gia liên đới), lạ một điều (mà sao lại là lạ
nhỉ ?), là từ “người thua” đến “kẻ thắng”, giờ đây, ai ai cũng mang một mặc cảm
hoành đoạt (complexe de frustration), nói nôm na mà MẤT MÁT.
Trước hết là NGƯỜI DÂN THƯỜNG.
Người ra đi hàng triệu, bỏ xác ngoài biển khơi hàng ngàn, vạn, biết bao em
gái ta, chị ta, cả mẹ ta nữa… bị kẻ hải tặc khốn kiếp dày vò làm nhục!
Chưa nói đến của cải, ai còn sống thì đều cảm thấy mất quê hương!
Người ở lại, hàng chục triệu nông dân bỗng dưng cảm thấy mất đất, không có
quyền tự do hành xử trên “mảnh đất ông bà”, trong khuôn viên do chính tay mình
tạo dựng; hàng triệu công nhân mất việc, thất nghiệp hay bị kém sử dụng
(sous-emploi), sống ngất ngư, lây lất qua ngày…
Trí thức, thì tản mác, bị lãng phí thảm hại, trừ một số rất ít kẻ xu thời
(đời nào chẳng có?), người nào cũng cảm thấy mất tự do tư tưởng và sáng tạo.
Một tình trạng như thế, chỉ có lợi cho lũ gian manh. Một cuộc “đổi đời” kỳ
cục như thế, mà nếu cứ nhất định muốn gọi nó, muốn gọi đó, là “cách mạng”, thì
là một cuộc cách mạng đã mất phương hướng. Phương hướng là cái tiêu ngữ trên
mỗi đầu trang giấy, từ sau Tháng Tám 1945: ĐỘC LẬP – TỰ DO – HẠNH PHÚC.
Cho nên phải nghĩ lại, phải bình tâm mà nghĩ lại, nói theo thời thượng từ
giữa thập kỷ 80, là phải ĐỔI MỚI TƯ DUY.
Tư duy là công việc của mỗi CON NGƯỜI, vì về bản chất, con người là một
sinh vật có tư duy, có ý thức và vì có tư duy, có ý thức mà được / phải có
quyền tự do lựa chọn mô hình hành động, cho chính mình (tự do cá nhân), cho chính
cộng đồng mình (nhà mình, làng mình, nước mình…) và phải / được chịu trách
nhiệm về chính sự lựa chọn đó.
Tôi rất thân và rất quí Nguyễn Huy Thiệp, hẳn thế, nhưng chính vì thế mà
tôi không thể nào đồng ý với anh khi anh trả lời phỏng vấn báo Libération là
“Tôi đã sống như một con thú“. Con thú làm sao mà biết viết, biết in “Tướng về
hưu”, “Phẩm tiết”…?
Lẽ tất nhiên là tôi hiểu cái “ý tại ngôn ngoại” của anh: Cái mặt bằng kinh
tế xã hội của một Việt Nam hiện nay trên đó “anh phải sống”, sự ràng buộc của “cơ
chế”? v.v…
Tôi nhớ lại, ngày 12/01/1983, trong buổi họp kỷ niệm 40 năm ra đời “Đề
cương Văn hoá Việt Nam”, ông Trường Chinh (tác giả chính của cái “Đề cương” đó)
đã nói với các “nhà khoa học xã hội” Việt Nam: “Nếu không có một điều kiện tối
thiểu về vật chất để sinh sống thì con người có thể trở thành con thú! ”
Điều đó chẳng có gì mới lạ, vì bằng kinh nghiệm nghiệm sinh, nhiều nhà trí
thức chúng tôi đã nghĩ và nói thế từ lâu. Điều mới và lạ, là cho đến tận lúc
ấy, một vị lãnh đạo cao cấp của đảng Cộng sản Việt Nam mới nói ra như thế!
Mà con người, nhất là người trí thức Việt Nam, đâu chỉ đói rét vì miếng cơm
manh áo? Đói tự do tư tưởng cũng có thể trở thành con thú!
Vì con thú, như con trâu, con bò, dù có no cỏ thì cũng chỉ biết theo đuôi!
Theo đuôi con đầu đàn!
Bao năm qua, có biết bao con người Việt Nam chỉ biết theo đuổi kẻ cầm
quyền, hoặc khốn khổ thay, là chỉ được theo đuôi người lãnh đạo và lại được
“khen” là “có ý thức tổ chức, kỷ luật” và vì vậy được vào Đảng, được “đề bạt”
làm kẻ “cầm quyền” bậc sơ trung cấp, để, nói cho cùng, cũng chỉ thành kẻ “chấp
hành”, “thừa hành”, nhưng có được chút “quyền”: Dối trên và nịnh trên, lừa dưới
và nạt dưới!
Tôi nhớ lại, khoảng mười năm trước đây, một người học trò và là bạn trẻ của
tôi, trước khi đi Nga làm luận án Phó tiến sĩ sử học, trong buổi “tiệc bia”
tiễn biệt thầy trò, bè bạn, đã ngỏ với tôi lời “khuyên” tâm sự: – Nếu như thày
mà cũng “đầu hàng cơ chế” nữa là bọn em mất nhờ đấy!
Anh ấy ở Nga 4 năm, về nước với bằng xanh phó tiến sĩ, thẻ đỏ đảng viên và,
gia nhập “cơ chế”, trở thành “người lãnh đạo” của tôi hôm nay! Tôi chẳng buồn
mà cũng chẳng vui. Tôi chọn lựa cho mình một hướng đi: Gia nhập “Câu lạc bộ
những người thích đùa”. Tôi thường nói đùa như người Hà Nội vẫn thường đùa, anh
ấy:- Cậu là đảng viên nhưng mà tốt!,
Câu nói đùa, mà “nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào” và hơn nữa, với câu
nói ấy, có thể bị “quy chụp” là “phản động”.
Tôi có một anh bạn, phải nói là rất thân, học với nhau từ thuở “hàn vi”,
lại cũng làm việc dưới một mái trường Đại học trên ba chục năm trường, cùng
“leo thang” rất chậm, từ “tập sự trợ lý” đến full professor, chair-department.
Anh là con “quan lớn”, em của “nguỵ lớn” nhưng “có đức có tài”, được chọn làm
“hàng mẫu không bán – kiểu như ông Bùi Tín vừa làm ồn ào giới truyền thông một
dạo, nhưng khác ông ta là cho đến nay anh không gửi “kiến nghị” kiến nghiếc gì,
nói năng với TRÊN, với DUỚI bao giờ cũng “chừng mực”, chẳng “theo đuôi” mà cũng
chẳng là “dissident” của chế độ.
Anh thường bảo tôi: Thì về cơ bản cũng nghĩ như cậu thôi. Nhưng cậu thông
cảm, mỗi người một tính một nết, một hoàn cảnh. Cậu “thành phần tốt”, ăn nói
táo tợn thì quá lắm người ta chỉ bảo cậu là “bất mãn cá nhân” thôi. Tớ “thành
phần xấu”, ăn nói bằng 1/10 cậu thôi cũng đủ bị “quy” là “phản ứng giai cấp”
rồi!
O.K.! Anh cứ sống kiểu anh, tôi cứ sống kiểu tôi. Chỉ có mỗi một điều thôi,
là vì vậy và vì nhiều lý do sâu xa khác nữa, nên nước ta chỉ có những nhà trí
thức (intellectuals) chứ không có giới trí thức (intelligentsia).
Vậy thua thiệt thì Dân ráng chịu!
Bi kịch, nỗi bất hạnh của trí thức Việt Nam, của nước Việt Nam là ở đó…
*
* *
Báo Đoàn Kết của một cộng đồng người Việt Nam bên Pháp đưa tin: Vào cuối
năm ngoái (1990), có một ông uỷ viên Bộ chính trị kiêm bí thư thường trực Trung
ương đảng Cộng sản Việt Nam, nhân sang Paris dự Đại hội đảng Cộng sản Pháp, có
tập hợp Việt kiều lại để nói chuyện. Trong khoảng 2 tiếng, ông chỉ “nói” mà
không “nghe”, lại còn bảo: “Sống ở nước ngoài, biết gì chuyện trong nước, tuổi
40-50 trở xuống (nghĩa là vào hạng tuổi con cháu ông) biết gì mà góp ý kiến!“
Xem chừng bà con Việt kiều, nhất là anh chị em “trí thức”, bực mình với ông
lắm.
Tôi là “trí thức” ở trong nước, ở Hà Nội nữa, nghe những lời lẽ ấy “quen
tai” rồi. Cũng ông ấy, lúc còn làm “Bí thư thành uỷ” Hà Nội, khi thấy báo “Quân
Đội Nhân Dân” 1987 công bố “Bức thư ngỏ gửi ông chủ tịch thành phố Hà Nội” của
tôi, nói về việc “Phá hoại các di tích lịch sử của Thủ đô” đã cho triệu tôi lên
trụ sở Thành uỷ và “thân mật” bảo ban 2 điều:
- Nếu anh là công nhân, anh nói (nôm na, tục tằn) kiểu đó tôi còn hiểu
được, đằng này anh là giáo sư, là trí thức, sao lại nói (nôm na, “toạc móng
heo, treo móng giò”) kiểu đó ?
- Nếu anh nói thế, “tôi” thì “tôi” nghe được, nhưng những “người khác”, họ
không nghe được! Từ nay anh nên “thay đổi” cái “giọng nói” của anh đi!
Tôi cũng “trả lại ông” 2 điều:
- Đảng bảo: “Trí thức là của Công Nông và cũng là Công Nông”, vậy nếu công
nhân – theo ông – nói được như vậy thì trí thức cũng nói được như vậy. Có gì
(theo ông) là khác nhau giữa giọng “trí thức” và giọng “công nhân” ?
- Ông không khác gì người khác. Nếu theo ông, ông “nghe được” vậy thì người
khác cũng phải nghe được. Vậy tôi chả việc gì phải “đổi giọng” cả!
Thực ra, tôi biết thừa cái “giọng tôi” chính ông nghe không được nên ông
mới “góp ý” cho tôi, nhưng ông lại cố tình đổ cho là người khác nghe không
được. Hơn nữa ông lại cố tách “tôi” ra khỏi công nhân, “đề cao” tôi là “trí
thức”, để chỉ cốt răn dạy tôi: Với vị thế của anh, anh không được ăn nói với
chúng tôi (những nhà lãnh đạo) bằng cái giọng như vậy!
Bà xã tôi lúc ấy còn sống và là giáo viên trường Trung học Trưng Vương nổi
danh ở Hà Nội – nghe tin tôi được / bị phải gọi lên thành uỷ, lấy làm lo lắng
lắm, bảo tôi (“giọng” bà ấy bao giờ cũng vậy, con gái nhà “tư sản Hà Nội” mà):
– Anh lên đấy, liệu mà ăn mà nói! Anh có sao, chỉ khổ vợ con! Chùa Một Cột có
bị phá để làm Bảo tàng Lăng Bác, nếu có hại thì hại cả nước, đâu dính gì đến
riêng anh mà anh cứ “la làng” lên, một con én chẳng làm nổi mùa xuân, “ăn cái
giải gì” mà cứ nói, chỉ khổ vào thân; có cái giấy Úc mời sang kỷ niệm 200 năm
nước “nó” đấy, khéo các “bố” ấy lại không cho đi, vợ con lại mất nhờ.
Ôi, làm “thằng người Việt Nam”, làm “trí thức Việt Nam” biết bao là “hệ
luỵ”.
Tôi đưa chuyện HỌC TRÒ, BÈ BẠN, VỢ CON dàn trải trên mặt giấy đâu phải để
“nói xấu” họ, nhất là nói về vợ tôi (nay đã mất, cầu cho linh hồn bà ấy tiêu
diêu miền cực lạc) mà trong tâm khảm tôi, bao giờ tôi cũng cảm thấy mình xấu
tính hơn bè bạn – vợ con – học trò. Tôi chỉ muốn nói về thân phận trí thức ở
cái nước Việt Nam mang cái nhãn hiệu Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa mà thực ra là
còn đang rất kém phát triển này: Ông uỷ viên Bộ chính trị ấy, kiêm bí thư Trung
ương này, kiêm bí thư thành phố này… ai chả nghĩ là ông ấy cộng sản hơn ai hết
nhưng thực ra thì ứng xử của ông ấy từ Hà Nội đến Paris lại “gia trưởng”, “nho
giáo cuối mùa” hơn ai hết!
Khổ vậy đó, Cho nên giáo sư Alexander Woodside, từ góc trời tây bắc của xứ
tuyết Canada mới hạ một câu về cách mạng Việt Nam: “The spiritual and cultural
milieu from which the vietnamese revolution sprang was both confucian and
comunist” (Cái môi trường tâm linh và văn hoá mà từ đấy cách mạng Việt Nam
phóng tới là cả Khổng Nho và Cộng sản).
*
* *
Ông giáo sư Từ Chi một trong những bạn bè thân thiết của tôi từ một “cậu
Tú” ở Huế đi Nam tiến ngay sau ngày 23/9/1945 và trở thành cộng sản, rồi năm
1954 trở về học đại học để trở thành một nhà dân tộc học.
Ông đi làm chuyên gia ở Tây Phi, thương một người con gái Hà Nội nhà nghèo
vì chiến tranh mà lưu lạc mãi sang tận bờ sông Niger. Ông quyết đưa người phụ
nữ bất hạnh đó trở về Tổ quốc chỉ bằng cách kết hôn với nhau, dù ông biết trước
rằng hành động dấn thân ấy ông sẽ phải về nước trước thời hạn.
Và cho đến 25 năm sau, ông không bao giờ được ra nước ngoài, dù ông, không
có bất cứ một hành vi gì phạm pháp. Cái án được phán quyết không theo “Luật hôn
nhân và gia đình” của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành năm 1960, mà là
theo đạo lý hủ Nho.
Về nước năm 1965, qua ngã Moscow, ông dừng chân ở đó 5 ngày, về Hà Nội gặp
tôi ở quán cà phê Sính, ông rỉ tai tôi: “Chế độ Xô Viết không thể nào viable”
(nguyên văn có nghĩa: không thể “thọ” được).
Đấy là lời tiên tri đúng trước 1/4 thế kỷ!
Vì sao NƯỚC và ĐẢNG có những người trí thức giỏi đến thế mà bây giờ cả
NƯỚC, cả ĐẢNG đều lâm vào tình huống “khủng hoảng toàn diện”?
Từ năm 1965, cứ mỗi lần nghe thấy lời khuyến dụ tôi vào Đảng, ông lại bảo
tôi: – Tùy ông đấy, nhưng… nếu ông có vào thì đừng để người ta đuổi ông ra! Ông
biết kỷ luật của Đảng ông là “kỷ luật sắt” mà tôi thì ông cũng biết quá rõ tôi
là người “tự do”, tính ưa phóng khoáng, là người “bất cơ” (không chịu ràng
buộc) theo chữ dùng để đánh giá mình của nhà sử gia họ Tư Mã bên Tàu!
Tôi hỏi ý kiến ông về tính chất Cách mạng Việt Nam. Ông trả lời: Cụ Hồ bảo
nước mình là một nước nông nghiệp, dân tộc mình là một dân tộc nông dân. Cứ đấy
mà suy, thì cuộc “Cách mạng” bây giờ hẳn vẫn là một cuộc khởi nghĩa nông dân.
Khác chăng là trước, khởi nghĩa nông dân do một số nhà nho xuất thân nông
dân như Quận He, như Cao Bá Quát cầm đầu, bây giờ là do những người cộng sản
cũng xuất thân ở nông thôn và có căn tính nhà nho, như cụ Hồ, như ông Trường
Chinh… lãnh đạo. Ông đọc bài ông Nguyễn Khắc Viện rồi chứ, “Confucianisme et
Marxisme” (La Pensée, No 105, Octobre 1962). Ông Viện là cộng sản và là con cụ
nghè Nguyễn Khắc Niệm đấy!
Đầu thế kỷ XX, trong xã hội yêu nước vẫn âm ỉ một chủ nghĩa yêu nước xóm
làng (village patriotism, chữ của Alexander Woodside). Yêu nước chống Pháp kiểu
Nho của cụ Phan Bội Châu thất bại ở 2 thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Và dòng trí
thức Nho gia tàn lụi.
Một số con cháu nhà Nho, một số con cháu nông dân, một số con cháu nhà công
thương mới trở thành lớp trí thức Tây học. Một số ấy chấp nhận le fait colonial
và trở thành công chức cho Tây, như ông cụ ông là kỹ sư canh nông, như ông cụ
tôi là bác sĩ…
Một số khác, yêu nước hơn, mong áp dụng ở Việt Nam những lý tưởng Mác-Lê
thế kỷ XIX. Cái chủ nghĩa quốc gia của kiểu tư sản mà ông Nguyễn Thái Học, ông
Xứ Nhu, kể cả cậu ruột ông đã khởi xướng ở Việt Nam Quốc dân đảng thì đã bị
thực dân vùi dập khủng bố tan hoang từ thập kỷ 30. Còn lại cái chủ nghĩa quốc
tế của Mác-Lê mà Nguyễn Ái Quốc và những nhà cộng sản mang về áp dụng vào một
xã hội nông dân châu Á nghèo khổ, khác hẳn cơ địa xã hội tư sản Tây Âu, nơi
hình thành chủ nghĩa Marxisme. Người cộng sản Việt Nam có căn tính nông dân –
Nho giáo đã gần Dân hơn người tiểu tư sản Tây học ở thành thị. Họ đã vận động
và tổ chức được phong trào nông dân và toàn dân đánh Pháp, đuổi Nhật, làm cách
mạng tháng Tám thành công. Kháng chiến là sự nối dài của Cách mạng tháng Tám.
Kháng chiến đã thắng lợi. Chủ nghĩa thực dân phương Tây đã bị hóa giải.
*
* *
Dưới thời Quân chủ – Nông dân – Nho giáo, ở Viễn Đông, có một ước mơ ĐẠI
ĐỒNG. “Thế giới ĐẠI ĐỒNG, thiên hạ vi CÔNG”.
Ở đầu thập kỷ 20, trong một bài viết, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cái chủ nghĩa
ĐẠI ĐỒNG của Khổng Nho ấy rất gần với chủ nghĩa Cộng sản.
Alexander Woodside nhận xét: Ông Mao phê phán rất dữ dằn Khổng Nho còn ông
Hồ rất nhẹ nhàng với Nho Khổng.
Xây “đời sống mới” năm 1946, ông Hồ nêu khẩu hiệu của Nho Khổng: CẦN KIỆM
LIÊM CHÍNH CHÍ CÔNG VÔ TƯ. Dạy đạo đức cho cán bộ, ông Hồ lấy câu Nho Tống:
“Tiên ưu hậu lạc”. Về giáo dục xã hội, ông cũng dùng câu có sẵn của Khổng Mạnh,
đại loại như “Bất hoạn bần nhi hoạn bất quân…” (Không sợ thiếu chỉ sợ không
công bằng…) hay là “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng
người”, v.v… và v.v…
Đến di chúc, ông cũng đưa vào một câu trích dẫn của Đỗ Phủ đời Đường: “Nhân
sinh thất thập cổ lai hy”. Thơ chữ Hán của ông, có nhiều câu, ý phỏng theo
Đường thi…
Nhưng cái mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu Stalin hay kiểu Mao (Staline Mao
hoá) dù đã ít nhiều Hồ hoá, Việt Nam hoá cũng tỏ ra không thành công trước thực
tiễn “bướng bỉnh” của một nước Việt Nam nhỏ bé – tiểu nông.
Người Cộng sản Việt Nam đã lầm khi tưởng rằng dù với cơ cấu kỹ thuật cũ, ít
thay đổi, cứ làm đại việc công hữu hoá (quốc hữu hoá, tập thể hoá, hợp tác
hoá…) thì vẫn xoá bỏ được áp bức bóc lột, cải tạo xã hổi chủ nghĩa thành công.
Hoá ra là một công thức đơn giản hơn:
CÔNG HỮU HOÁ + CHUYÊN CHÍNH (VÔ SẢN) = (QUÁ ĐỘ sang) CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Tôi và ông Từ Chi bàn mãi về chuyện này. Sau thời công xã nguyên thuỷ, chế
độ áp bức bóc lột đầu tiên nảy sinh ở đất Việt với chế độ “thủ lĩnh địa
phương”, lang đạo, phìa tạo (tiếng Anh tạm dịch là local chieftains) khi ruộng
đất còn gần như y nguyên là “của công”, nhưng “dân đen” là tiểu nông tản mạn,
còn thủ lĩnh giữ quyền “thế tập” theo dòng máu.
Dân gian nói giản dị:
Trống làng ai đánh thì thùng
Của chung ai khéo vẫy vùng thành riêng!
Thì giờ đây, ruộng hợp tác, của kho hợp tác, bọn bí thư, chủ nhiệm, kiểm
soát đều ở trong một cơ sở Đảng chuyên chính, chúng sẽ “vẫy vùng” thành riêng
thôi!
Ba năm liền từ 1976 đến 1979, tôi đi Định Công (Thanh Hoá), ngày- khảo cổ
,đêm- khảo kim. Và 3 ngày liền cuối năm 79, tôi thuyết trình trước Tỉnh ủy
Thanh Hóa về sự phá sản của mô hình làng Định Công (người ta tuyên bố “Định
Công hóa” toàn tỉnh Thanh Hóa, với bài báo tràng giang “Bài học Định Công” của
Bí thư Trung ương Tố Hữu). Thính giả cứ bỏ dần trước sự “vắng mặt” của Bí thư,
Phó bí thư Tỉnh uỷ (người ta phải “nhìn Trên” để định thế ứng xử). Còn một ông
thường vụ phụ trách tuyên huấn kiên trì nghe 3 ngày, để sau này khi Định Công
phá sản hoàn toàn, đã khoa trương tuyên bố, chứng tỏ ta đây sáng suốt hơn các
nhà lãnh đạo khác:
- “Lúc bấy giờ (79), ai dám nghe Trần Quốc Vượng nói, ngoài tôi?” (ông ấy
bây giờ là Bí thư Đảng uỷ Bộ Văn hoá – Thông tin).
Năm 1982 tôi đi Liên Xô thuyết trình khoa học. Bài viết của tôi bằng tiếng
Việt, Dương Tường dịch sang tiếng Anh, Từ Chi dịch sang tiếng Pháp, bà Nona Nguyễn
Tài Cẩn dịch sang tiếng Nga. Bà Nona bảo: Bài của anh hay lắm, nhưng thuyết
trình ở Paris thì hợp hơn, nói với trí thức nước tôi (Liên Xô), họ không hoan
nghênh đâu! Mà quả nhiên!
Về nước, tôi briefing cho bạn bè nghe về Liên Xô và nói lén qua hơi men:
“Dứt khoát hỏng!” Và đấy là lần duy nhất tôi “được” đi Liên Xô. Đầu năm 1983,
giáo sư Phạm Huy Thông cho đăng bài của tôi lên trang đầu Tập san Khảo cổ học.
Đảng uỷ Uỷ ban Khoa học Xã hội viết bản báo cáo dài lên ban Tuyên huấn Trung
ương quy kết tôi 4 tội:
- Chống chủ nghĩa Mác-Lê: vì tôi bảo: Công hữu hoá có thể đẻ ra bóc lột.
- Chống công nghiệp hoá: vì tôi bảo: Nông nghiệp phải / còn là mặt trận sản
xuất hàng đầu.
- Chống đấu tranh giai cấp: vì tôi bảo: Nông dân khởi nghĩa (ngay cả ăn
cướp) cũng không đánh vào người làng, mà chủ yếu đi cướp nơi khác và đánh vào
Quan.
- Chống chuyên chính vô sản: vì tôi bảo: Chuyên quyền đẻ ra tham nhũng.
Vụ án “văn tự” này kéo dài 3 năm, không có kết luận. Ba năm tôi được “ngồi
nhà”, khỏi đi Tây và nói tiếng Tây! Cuối năm 86, khi Đại hội VI đảng Cộng sản
Việt Nam kết luận lại trong nghị quyết là Nông nghiệp là “mặt trận hàng đầu”,
giáo sư Phạm mỉa mai ở trụ sở Uỷ ban Khoa học Xã hội: Thế bây giờ Đảng uỷ đúng
hay Trần Quốc Vượng đúng ?
Nhưng “nỗi ám ảnh của quá khứ” vẫn không tha người làm Sử như tôi (mà nói
theo nhà Phật thì kiếp này còn là “quả” của kiếp trước kia mà). Năm 1985, nhân
năm “quốc tế người già”, ông Nguyễn Hữu Thọ nhờ người nói tôi viết bài “Truyền
thống người già Việt Nam”. Báo Đại Đoàn Kết của ông không “đoàn kết” nổi bài
của tôi, tôi nhờ báo Tổ Quốc của ông Nguyễn Xiển đăng dùm. Rồi năm 1986 có hội
Khoẻ Phù Đổng của đoàn Thanh Niên, ông Bí thư Thanh Niên nhờ tôi viết bài “Phù
Đổng khoẻ”. Mùa hè nóng bỏng 86, trước Đại hội VI 5 tháng, ông Bí thư Trung ương
Đảng phụ trách tư tưởng H.T. đem hai bài của tôi ra “chửi bới” giữa Hội nghị mở
rộng Ban Chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam, đề bạt Nguyễn Khắc Viện, Trần Quốc
Vượng, Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng là 4 trí thức chống đối.
Ông Giàu, thầy học cũ của tôi, đâm thư kiện. Ông H.T. biên thư trả lời (tôi
còn giữ làm “chứng từ thanh toán”) bảo: Tôi không động đến anh, tôi chỉ động
đến Trần Quốc Vượng, vì anh ta viết “Các vua Trần nhường ngôi” ám chỉ đòi chúng
tôi rút lui, và viết “Thánh Gióng bay lên trời” ám thị chúng tôi đánh giặc xong
còn cứ ngồi lại giành quyền vị…!
Khốn khổ, vì sao các ông ấy cứ “mỗi lời là một vận vào khó nghe” như vậy?
Hay là tại dân gian “nói cạnh” các cụ: Có tật giật mình?
*
* *
Xã hội Việt Nam truyền thống cũ có nhiều nét hay, vẻ đẹp nên ở cạnh nước
lớn, bị xâm lăng, đô hộ, đè nén hàng ngàn năm vẫn trỗi dậy phục hưng dân tộc,
“trở thành chính mình”. Nhưng xã hội quân chủ – nông dân – nho giáo từ sau thế
kỷ XV có nhiều “khuyết tật trong cấu trúc” – nói theo các nhà khoa học hôm nay:
Ở trong NHÀ thì có thỏi GIA TRƯỞNG, tuy tâm niệm “con hơn cha là nhà có
phúc” mà vẫn không thích “ngựa non háu đá”, “trứng khôn hơn vịt”.
Ở trong LÀNG thì có nạn CƯỜNG HÀO, với tinh thần ngôi thứ, chiếu trên,
chiếu dưới, “miếng giữa làng hơn sàng xó bếp”.
Ở trong VÙNG thì có nạn SỨ QUÂN, thủ lĩnh vùng thích “nghênh ngang một
cõi”, gặp dịp là sẵn sàng “rạch đôi sơn hà”.
Ở cả NƯỚC thì có nạn QUAN LIÊU, quan tham nhũng, tân quan tân chính sách,
luật không bằng lệ, kiện thì cứ kiện nhưng “chờ được vạ má đã sưng”, nên chỉ cứng
đầu thì dại, “không ngoan” nhất là “luồn cúi”. Và trí thức “lớn” thì cũng tự an
ủi “gặp thời thế thế thời phải thế”.
Vì ngoài thì “bế môn toả cảng”, trong thì “chuyên quyền độc đoán”, cho nên
sĩ khí ắt phải bạc nhược.
Thế giới giờ đây thay đổi đã nhiều. Song, trong nước mình thì chưa đổi được
bao nhiêu. “Nỗi ám ảnh của Quá khứ” vẫn còn đè nặng.
Chỉ còn một cách để “đổi đời” cho DÂN, cho NƯỚC: Đó là xây dựng một chế độ
dân chủ, một nhà nước pháp quyền, một nền kinh tế công – nông – nghiệp với thị
trường tự do, một tư tưởng cởi mở, rộng dung, khoáng đạt, tự do, một nền văn
hoá đa dạng, giữ cho được bản sắc tốt đẹp của dân tộc nhưng biết hoà nhập với
thế giới, với nhân gian…
Tóm một chữ thì không phải là chữ “ĐẤU” mà là chữ “HÒA”: HÒA BÌNH, HÒA HỢP,
HÒA THUẬN, HÒA GIẢI…
Chẳng những NHÂN HÒA mà cả NHIÊN HÒA (hoà hợp với thiên nhiên, tự nhiên)
“Hoà nhi bất đồng”… mong lắm thay!