ĐIỀU TRẦN TRƯỚC ỦY BAN THƯỢNG VIÊN VỀ THƯƠNG MẠI, KHOA HỌC VÀ
GIAO THÔNG, QUỐC HỘI HOA KỲ.
Tác giả: Rush Doshi
Người dịch: Lê Nguyễn
Ghi chú của ban biên tập: Rush Doshi điều trần trước Ủy ban Thương mại, Khoa học và Vận tải của Thượng viện Hoa Kỳ về sự cần thiết phải điều chỉnh lại các chính sách kinh tế của Hoa Kỳ để xây dựng khả năng phục hồi và khả năng cạnh tranh trước thách thức Trung Quốc.
GIỚI THIỆU [1]
…. cảm ơn quý vị đã cho tôi cơ hội phát biểu trong phiên điều trần hôm nay về thách thức Trung Quốc và nỗ lực xây dựng khả năng phục hồi và khả năng cạnh tranh của Hoa Kỳ. Theo yêu cầu, tôi sẽ tập trung nhận xét của mình vào ba chủ đề. Trước tiên, tôi sẽ thảo luận về thách thức của Bắc Kinh đối với vị trí lãnh đạo công nghệ toàn cầu của Mỹ và tham vọng thống trị điều mà nước này thường gọi là “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. Thứ hai, tôi sẽ thảo luận về một số thách thức mà Hoa Kỳ phải đối mặt trong việc thu hút lại hoặc đa dạng hóa chuỗi cung ứng hiện đang đóng trụ sở tại Trung Quốc cũng như duy trì vị thế dẫn đầu về công nghệ của Mỹ. Cuối cùng, tôi sẽ đưa ra các khuyến nghị đối với chính sách của Hoa Kỳ tập trung vào một số hạng mục nỗ lực lớn: (1) thu thập thông tin; (2) sự phối hợp của chính phủ; (3) nhập cư và khoa học cơ bản; (4) cải cách các khuyến khích tài chính và doanh nghiệp; và (5) phối hợp với các bên có liên quan. Người ta hy vọng rằng những chính sách này có thể xây dựng khả năng phục hồi lâu dài và khả năng cạnh tranh của Hoa Kỳ khi chúng ta tham gia vào điều mà một số người gọi là “cuộc đua marathon siêu cường” với Trung Quốc.[2]
I. THÁCH THỨC CỦA TRUNG QUỐC ĐỐI VỚI VỊ TRÍ LÃNH ĐẠO CÔNG NGHỆ TOÀN CẦU CỦA HOA KỲ
Hầu hết các nhà quan sát ngày càng thấy rõ rằng Trung Quốc đang theo đuổi một nỗ lực mạnh mẽ, được nhà nước hậu thuẫn nhằm thay thế Hoa Kỳ trong vị trí dẫn đầu về công nghệ toàn cầu. Nỗ lực này không chỉ hoàn toàn được thúc đẩy bởi các cân nhắc thương mại mà còn là các cân nhắc địa chính trị. Bắc Kinh tin rằng sự cạnh tranh về công nghệ không chỉ là việc các công ty của ai sẽ thống trị các thị trường cụ thể nào, mà cũng là về việc quốc gia nào đạt được vị trí tốt nhất để dẫn đầu thế giới.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc thường coi công nghệ và trao đổi kinh tế qua lăng kính chính trị, đặc biệt xem như đó là một cách để tạo ra hoặc tránh sự phụ thuộc, củng cố “sức mạnh toàn diện” của Trung Quốc và xây dựng thứ bậc trật tự. Quan điểm này dường như bắt nguồn từ truyền thống chủ nghĩa trọng thương (merchantilism), nhất quyết chỉ có lời và chủ nghĩa Lênin của Đảng cũng như trong lịch sử dân tộc của Đảng. “Thế kỷ sỉ nhục” của Trung Quốc, kéo dài từ Chiến tranh nha phiến đến khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1949, được coi là sản phẩm thất bại của đất nước trong việc đạt được “sự giàu có và quyền lực” [富强] so với phương Tây và Nhật Bản công nghiệp hóa [3].Theo đó, tiến bộ công nghệ từ lâu đã được coi là một phương tiện để đạt được “sự giàu có và quyền lực”, dù là trong quá trình Trung Quốc theo đuổi vũ khí chiến lược dưới thời Mao Trạch Đông lãnh đạo hay nỗ lực đạt được điều mà người kế nhiệm Đặng Tiểu Bình gọi là “hiện đại hóa lần thứ tư” của khoa học và tiến bộ công nghệ – cả hai đều được coi là nỗ lực nhằm tăng cường sức mạnh của Trung Quốc. Giờ đây, khi Trung Quốc nhận thấy một thời kỳ thay đổi công nghệ mới, các bài viết của Đảng Cộng sản Trung Quốc cho rằng địa chính trị lại được đặt lên hàng đầu.
Tham vọng của Trung Quốc – Nắm bắt cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Đảng Cộng sản Trung Quốc tin rằng thế giới đã bước vào thời kỳ “những thay đổi lớn chưa từng thấy trong một thế kỷ”. Cốt lõi của những thay đổi này là sự thay đổi cán cân quyền lực giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, và một động lực chính của sự thay đổi đó là sự khởi đầu của một vòng đổi mới công nghệ mới mà Tập Cận Bình và những người khác đôi khi gọi là “ Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư ”[第四 次 工业 革命].
Mặc dù ý tưởng về “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” ban đầu xuất hiện từ Diễn đàn Kinh tế Thế giới vào năm 2015, nhưng khái niệm này đã được Đảng Cộng sản Trung Quốc vô cùng hứng khởi đón nhận. Như Tập Cận Bình đã lập luận trong một bài phát biểu năm 2018: “Từ cơ giới hóa cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên vào thế kỷ 18, điện khí hóa cuộc cách mạng công nghiệp thứ hai vào thế kỷ 19, đến thông tin hóa cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba trong thế kỷ 20,” mỗi vòng “đổi mới công nghệ đột phá” đã định hình nên lịch sử [4]
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc tin rằng thập kỷ tới sẽ quyết định phần lớn ai là người dẫn đầu cuộc cách mạng công nghiệp tiếp theo. “Mười năm tới sẽ là một thập kỷ quan trọng,” ông Tập lập luận, “một vòng mới của cuộc cách mạng công nghệ và thay đổi công nghiệp – trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, thông tin lượng tử và công nghệ sinh học – đang hội tụ sức mạnh.” Những điều đó sẽ mang lại “những thay đổi chấn động địa cầu” đồng thời cung cấp “cơ hội quan trọng để thúc đẩy sự phát triển đi tắt đón đầu”, cho phép Trung Quốc vượt qua các hệ thống cũ và vượt qua các đối thủ cạnh tranh [5]
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc từ lâu đã sử dụng cụm từ “bắt kịp và vượt lên” [赶超] để mô tả tham vọng công nghệ của họ, với Hoa Kỳ và phương Tây được coi là tiêu chuẩn quan trọng. Nhưng những thay đổi mang tính cách mạng về công nghệ, theo con mắt của một số nhà bình luận Trung Quốc, giờ đây đã khiến mục tiêu cao cả này thực sự có thể đạt được [6]. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư có thể tạo ra một loại “ khác biệt rất lớn” đi kèm với các cuộc cách mạng công nghiệp trong quá khứ, nơi một số quốc gia và những người sớm áp dụng vượt lên trước các đối thủ cạnh tranh có ý nghĩa lịch sử đối với chính trị toàn cầu. Trong khi các quan chức của Đảng nói chung tương đối dè dặt hơn trong việc mô tả tham vọng của Trung Quốc theo kiểu này, thì nhiều bài bình luận và các trung tâm cố vấn có vẻ cho rằng việc vượt qua Mỹ về công nghệ cao sẽ kết thúc kỷ nguyên lãnh đạo toàn cầu của nước này, và có lẽ, có thể tự hiểu là mở ra khả năng cho vị trí lãnh đạo của Trung Quốc.
Một loạt các nhà bình luận Trung Quốc đều đồng ý rằng công nghệ đang ngày càng trở thành trung tâm của cuộc cạnh tranh Mỹ-Trung. “Trong thập kỷ tới… cuộc cạnh tranh cho cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ bắt đầu giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ,” Jin Canrong, một giáo sư quan hệ quốc tế nổi tiếng và là một viện trưởng tại Đại học Renmin, viết [7] “Năng lực khoa học và công nghệ đã trở thành một chỉ số quan trọng đánh giá sức mạnh toàn diện của một quốc gia, và nó cũng trở thành chiến trường chính để cạnh tranh của các cường quốc”, Zhu Feng, một học giả và giáo sư nổi tiếng khác tại Đại học Nam Kinh, lập luận [8] Và vô số học giả lỗi lạc khác cũng bày tỏ tình cảm tương tự.
Một bài viết điển hình về thắng bại địa chính trị của cạnh tranh công nghệ có xuất xứ từ một bài bình luận có thẩm quyền và có vẻ có bút danh được đăng trên trang web của Tạp chí Study Times của Trường Đảng Trung ương [学习 时报] khoảng hai tháng sau bài phát biểu năm 2018 của ông Tập về cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư [9]”Nước Anh đã nắm bắt cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên” đã cung cấp cho nước này một đế chế; sau đó, khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra, “Hoa Kỳ đã nắm được quyền thống trị về năng suất tiên tiến từ Anh và nhảy lên vị trí cường quốc công nghiệp số một thế giới, đặt nền tảng vững chắc cho việc thiết lập quyền bá chủ toàn cầu.” Sau đó, “cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba bắt nguồn từ Hoa Kỳ” và Hoa Kỳ đã nắm bắt nó và tăng cường “sức mạnh toàn diện”, tạo nền tảng cho quyền bá chủ của Hoa Kỳ. Trung Quốc hiện nhận thấy cơ hội để sử dụng thứ mà họ tin là một hệ thống vượt trội để theo bước chân của Anh và Mỹ, nắm bắt một cuộc cách mạng công nghiệp mới và trở thành quốc gia hàng đầu thế giới.
Lợi thế của Trung Quốc – Những gì Trung Quốc nghĩ rằng họ làm tốt hơn Hoa Kỳ
Trung Quốc tin rằng họ đã đạt được vị trí tốt nhất để vượt qua Hoa Kỳ trong cuộc cạnh tranh cho cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư và nước này có bốn lợi thế chính: (1) đầu tư nhiều vào R&D; (2) các nền tảng thể chế ưu việt và chính sách công nghiệp hỗ trợ tham vọng của Trung Quốc; (3) năng lực sản xuất và vị trí trung tâm của chuỗi cung ứng toàn cầu; và (4) hoạt động mạnh mẽ hơn để thiết lập các tiêu chuẩn công nghệ toàn cầu có thể quyết định tương lai của các ngành công nghiệp chủ chốt.
Thứ nhất, Trung Quốc đã học hỏi từ lịch sử Hoa Kỳ trong việc xây dựng phương pháp tiếp cận nghiên cứu khoa học cơ bản của riêng mình. Bắc Kinh thừa nhận, như Hoa Kỳ đã từng làm, nghiên cứu như vậy không thể được hỗ trợ hoàn toàn bởi thị trường và khu vực tư nhân mà thay vào đó phải được sự ủng hộ của công chúng. Các khoản đầu tư của Trung Quốc rất khổng lồ. Quỹ Khoa học Quốc gia ước tính rằng tổng chi tiêu cho R&D của Trung Quốc gần tương đương với chi tiêu của Hoa Kỳ mặc dù nền kinh tế Trung Quốc nhỏ hơn [10]. Theo một số ước tính, R&D do chính phủ tài trợ của Trung Quốc cũng đã vượt quá chi tiêu cho R&D của liên bang Hoa Kỳ. Và trong các công nghệ trung tâm của cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư, sự khác biệt rất đáng kể. Trung Quốc chi khoảng 2,5 tỷ USD hàng năm, một con số khiêm tốn nhưng được ước tính gấp hơn 10 lần những gì Mỹ chi cho một lĩnh vực có tiềm năng kinh tế và chiến lược quan trọng [11]. Ngoài khoản chi hàng năm đó, Bắc Kinh cũng có kế hoạch chi khoảng 10 tỷ đô la để xây dựng Phòng thí nghiệm Quốc gia về Khoa học Thông tin Lượng tử [12]. Tương tự, trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, Trung Quốc chi tiêu ít nhất bằng Hoa Kỳ và có thể nhiều hơn, theo ước tính từ Trung tâm An ninh và Công nghệ mới nổi của Georgetown [13].
Thứ hai, Trung Quốc tin rằng các nền tảng thể chế của họ được thiết kế tốt hơn để huy động nhà nước, xã hội và thị trường trong việc thực hiện chính sách công nghiệp nhằm đạt được tham vọng công nghệ của đất nước. Ví dụ, bài bình luận của Study Times được trích dẫn trước đây đã lưu ý rằng các nền tảng thể chế là chìa khóa để nắm giữ vị trí lãnh đạo công nghệ, từ đó thúc đẩy tham vọng bá quyền – đây là lý do tại sao Anh thay thế Tây Ban Nha, Mỹ thay thế Anh và tại sao Trung Quốc có thể thay thế Mỹ. Bài bình luận kéo theo vô số các bài bình luận tương tự ở Trung Quốc cho rằng hệ thống chính trị phân cực của Hoa Kỳ hoạt động kém hiệu quả so với hệ thống của Trung Quốc [14]. Kết quả là, nó lập luận, “sự xuất hiện của một vòng cách mạng khoa học và công nghệ mới và chuyển đổi công nghiệp sẽ là nguồn hướng dẫn cho lợi thế thể chế của Trung Quốc đạt được mục tiêu ” vượt qua đường cong “, ám chỉ việc chạy nước rút nhanh về phía trước khi đối thủ cạnh tranh chậm lại hoặc xử lý sai một vòng quanh một trường đua.
Làm thế nào để những lợi thế thể chế được cho là sẽ được thể hiện trong điều kiện thực tế? Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã nói rõ về tính ưu việt của các chương trình chính sách công nghiệp của họ nhằm giúp Trung Quốc đạt được những đỉnh cao của cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư [15]. Ví dụ, sau COVID-19, Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Trung Quốc đã thông qua kế hoạch chi 1,4 nghìn tỷ đô la trong 5 đến 6 năm để xây dựng mạng không dây thế hệ thứ năm, lắp đặt camera và cảm biến để tạo ra thành phố thông minh và tích hợp mạng này với ngành công nghiệp để đẩy nhanh tiến độ trong sản xuất thông minh. Đầu năm nay, Trung Quốc có khoảng 200.000 tháp 5G được sử dụng; vào cuối năm, nó sẽ có hơn nửa triệu với mục tiêu cuối cùng là 5 triệu [16].
Ngoài ra, Trung Quốc đã đưa ra hơn 100 kế hoạch khoa học và công nghệ, bao gồm cả kế hoạch chi tiết để dẫn đầu về AI (trí tuệ nhân tạo) vào năm 2030 và thiết lập tiêu chuẩn vào năm 2035 [17]. Nó có một số quỹ với mục đích đặc biệt, phân bổ hàng chục tỷ cho các lĩnh vực nghiên cứu cụ thể. Và nó đã phát triển sáng kiến chính sách công nghiệp hàng đầu của mình, Made in China 2025, nhắm vào mười ngành công nghệ cao: công nghệ thông tin; sản xuất thông minh; hàng không vũ trụ; kỹ thuật hàng hải; đường sắt tiên tiến; xe điện; thiết bị điện; vật liệu mới; y sinh; và máy móc thiết bị nông nghiệp. Made in China 2025 tìm cách tập trung hóa những công nghệ quan trọng này, giành được vị trí thuận lợi trong chuỗi cung ứng toàn cầu, giành thị phần ở Trung Quốc và cuối cùng là chiếm thị phần toàn cầu từ thị trường nước ngoài. Để làm như vậy, nó sử dụng toàn bộ quyền lực của nhà nước và sức mạnh thị trường của nền kinh tế Trung Quốc để nâng cao các nhà vô địch địa phương vượt lên trước các đối thủ nước ngoài công nghệ cao trên toàn cầu [ 18 ], Sáng kiến này dựa vào chuyển giao công nghệ, hạn chế tiếp cận thị trường trong nước, mua lại cơ sở nước ngoài do nhà nước hậu thuẫn và trợ cấp. Mặc dù Bắc Kinh đã có phần giảm nhẹ nó trong các bài phát biểu chính thức của mình khi bị phản ứng dữ dội từ Hoa Kỳ và châu Âu, nhưng cốt lõi của sáng kiến vẫn còn rất nhiều tồn tại.
Thứ ba, các nguồn tin của Trung Quốc cho thấy họ nắm được hiểu biết là mặc dù Hoa Kỳ có thể có năng lực đổi mới vượt trội so với Trung Quốc, trong nhiều ngành, lợi thế đó không là vấn đề gì nếu không có năng lực sản xuất và gần như chắc chắn sẽ biến mất trừ khi họ quay trở lại. Các học giả Trung Quốc coi vị trí trung tâm của nước này đối với chuỗi cung ứng và sản xuất toàn cầu là một lợi thế chiến lược to lớn; ngược lại, họ lập luận rằng Hoa Kỳ đã cho phép “đào rỗng cơ sở công nghiệp của mình”, có nghĩa là họ không thể chuyển đổi các cải tiến của mình thành sản phẩm mà không có các nhà máy của Trung Quốc. Sự phụ thuộc vào năng lực sản xuất của Trung Quốc này – khi kết hợp với số lượng lớn kỹ sư của Trung Quốc, thiên hướng thiết kế ngược và hỗ trợ mạnh mẽ của nhà nước – mang lại cho họ lợi thế lâu dài trong cuộc cạnh tranh với Hoa Kỳ [19]. Như nhà nghiên cứu Dan Wang lưu ý, “Trung Quốc vẫn là một địa điểm sản xuất vô song với số lượng công nhân lành nghề, mạng lưới nhà cung cấp sâu rộng và sự hỗ trợ công khai đáng tin cậy của chính phủ dành cho các nhà sản xuất và sự hiện diện của cơ sở hạ tầng tín nhiệm” [20]. Ngay cả trong bối cảnh đại dịch, các công ty như Tesla vẫn đầu tư sâu vào Trung Quốc hoặc những công ty khác như Honeywell cũng đã công bố các khoản đầu tư mới vào Vũ Hán.
Thứ tư, Trung Quốc ngày càng tập trung vào việc thiết lập các tiêu chuẩn trong các cơ quan kỹ thuật so với Hoa Kỳ. Các mục tiêu của Trung Quốc bao gồm thúc đẩy các ngành công nghiệp của mình, kiếm tiền bản quyền sinh lợi khi các bằng sáng chế của họ được sử dụng, đồng thời đưa các giá trị và cách tiếp cận quản trị của mình vào kiến trúc công nghệ. Năm nay, Trung Quốc đã công bố Kế hoạch Tiêu chuẩn Trung Quốc 2035 như một phần trong nỗ lực nâng cao các tiêu chuẩn của mình trên toàn cầu. Tuy nhiên, ngay cả trước khi kế hoạch này được công bố, Trung Quốc đã có ảnh hưởng lớn đến các cơ quan quan trọng như Dự án Đối tác Thế hệ thứ Ba (Third Generation Partnership Project, 3GPP) và Liên minh Viễn thông Quốc tế ( International Telecommunication Union, ITU) và trong một số trường hợp, họ đã tìm cách chuyển các cuộc thảo luận về thiết lập tiêu chuẩn sang các cơ quan mà họ có ảnh hưởng lớn hơn. Các công ty Trung Quốc dự kiến sẽ thu được khoản tiền bản quyền khổng lồ khi thành công trong cuộc cạnh tranh về tiêu chuẩn 5G. Hơn thế nữa, liên quan đến cai quản , các công ty Trung Quốc như ZTE đã đề xuất các tiêu chuẩn cho kiến trúc đèn đường cho phép tích hợp khả năng giám sát bằng video; để nhận dạng khuôn mặt cho yêu cầu lưu trữ dữ liệu nhân khẩu học và sinh trắc học theo yêu cầu hoặc không theo yêu cầu; và cho một kiến trúc internet mới có lợi cho việc giám sát, kiểm duyệt và kiểm soát [21]. Thành công của Bắc Kinh trong các cơ quan này một phần có thể là kết quả của việc họ đầu tư thành công vào các công nghệ thế hệ tiếp theo như 5G theo cách tiếp cận “thực tiễn”có vẻ được nhúng tay bởi Đảng so với cách tiếp cận do ngành dẫn đầu và “không thực tiễn” mà Hoa Kỳ thực hiện. Mặc dù nhiều cơ quan thiết lập tiêu chuẩn chủ yếu bao gồm các công ty được cho là bỏ phiếu dựa trên lợi ích của họ, ít nhất là trong trường hợp của Trung Quốc, các công ty như Lenovo ban đầu đã bỏ phiếu tán thành các phương pháp tiếp cận do các công ty Mỹ hậu thuẫn đã bị những người theo chủ nghĩa dân tộc chỉ trích việc họ hành động như vậy và bị gây áp lực. Sau đó họ đã nương theo các phương pháp tiếp cận được hỗ trợ bởi các công ty lớn của Trung Quốc như Huawei. Như đội ngũ lãnh đạo của Lenovo đã đưa ra lưu ý trong một thông điệp xin lỗi được đăng trực tuyến [22]. Nếu nỗ lực của Trung Quốc tiếp tục thành công, Bắc Kinh có thể khóa các phương pháp tiếp cận của mình và mở rộng vị trí dẫn đầu trong một số công nghệ toàn cầu quan trọng nhất định làm phương hại đến các giá trị phổ quát và lợi ích của Hoa Kỳ.
II. NHỮNG THÁCH THỨC CHO HOA KỲ TRONG VIỆC THU HÚT CÔNG TY QUAY VỀ, ĐA DẠNG HÓA VÀ CẠNH TRANH CÔNG NGHỆ
Dù có sự đồng thuận ngày càng tăng trong mọi tầng lớp chính trị rằng sự xói mòn của vai trò lãnh đạo công nghệ và sản xuất chế tạo của Hoa Kỳ đã làm suy yếu khả năng phục hồi, khả năng cạnh tranh và an ninh của Hoa Kỳ, các nỗ lực để đảo ngược những xu hướng này đang phải đối mặt với nhiều thách thức.
Những thách thức đối với việc thu hút công nghiệp quay về và đa dạng hóa khỏi Trung Quốc
Một số nền kinh tế tiên tiến đang khởi động các nỗ lực giúp công ty hoạt động sản xuất hiện đang nằm ở Trung Quốc quay về lại, hoặc đa dạng hóa chuỗi cung ứng sang các thị trường bên ngoài Trung Quốc. Đài Loan là một trong những nước đầu tiên làm như vậy và để theo đuổi cái mà họ gọi là “chuỗi cung ứng không đỏ”, họ đã bắt đầu nỗ lực mạnh mẽ để thu hút các nhà sản xuất Đài Loan hiện đang ở Trung Quốc quay trở lại Đài Loan [23]. Những người khác đã làm theo. Nhật Bản đã trợ cấp cho 87 công ty rút khỏi Trung Quốc, chi 2 tỷ đô la cho những nỗ lực đưa hoạt động sản xuất trở lại Nhật Bản hoặc đa dạng hóa nó sang Đông Nam Á [24]. Các cuộc thảo luận tương tự cũng đang được tiến hành ở EU, với các quan chức hàng đầu thảo luận về khả năng thu hút lại hoặc đa dạng hóa một số ngành công nghiệp quan trọng [25] Và tất nhiên, Hoa Kỳ cũng đang xem xét nhiều công cụ để thúc đẩy việc quay về và đa dạng hóa chuỗi cung ứng, bao gồm việc thông qua các khoản vay lãi suất thấp, cắt giảm thuế doanh nghiệp, quỹ chuyên dụng và đề xuất thanh toán 100% phí tổn quay về cho các công ty [26].
Những nỗ lực này đang gặp cả thành công lẫn thất bại. Trong khi một số công ty sản xuất đã rời Trung Quốc đến Việt Nam, Bangladesh, Ấn Độ, Mexico và Đài Loan, thì cũng có nhiều công ty không muốn hoặc không thể chuyển địa điểm. Phòng Thương mại Châu Âu tại Trung Quốc phát hiện ra rằng chỉ có khoảng 11% thành viên của họ đang cân nhắc việc chuyển địa điểm ra khỏi Trung Quốc; tương tự, Chủ tịch AmCham (Phòng Thương mại Hoa Kỳ) Trung Quốc lưu ý rằng phần lớn các thành viên của nhóm không có kế hoạch rời khỏi Trung Quốc [27]. Đối với những công ty này, sự hợp lý vượt ra ngoài chi phí. Như học giả Damien Ma của Viện Paulson lập luận, người Mỹ khó bỏ Amazon vì đây là “cửa hàng mọi thứ”, và các nhà sản xuất khó bỏ Trung Quốc vì nó là “quốc gia làm nên mọi thứ” [28]. Các cuộc khảo sát đối với doanh nghiệp Mỹ và Trung Quốc, cho thấy hầu hết hiện nay họ không nghĩ đến việc chuyển ra khỏi Trung Quốc vì khả năng tiếp cận của họ với nhiều nhà cung cấp ở Trung Quốc là một lợi thế to lớn bù đắp cho giá trị của việc giảm chi phí lao động, trợ cấp hoặc tín dụng thuế. Đồng thời, Trung Quốc đang nỗ lực chống lại việc các công ty rời bỏ Trung Quốc. Tổng Bí thư Tập Cận Bình đã tuyên bố rằng bảo vệ chuỗi cung ứng của Trung Quốc là một trong sáu ưu tiên quốc gia của nước này sau COVID-19.
Những thách thức để duy trì cơ sở công nghệ của Hoa Kỳ
Ngay cả khi có một số ngành công nghiệp miễn cưỡng rời khỏi Trung Quốc, thì đồng thời cũng có những ngành khác đã rút khỏi thị trường Mỹ hoặc đang cân nhắc việc rút khỏi thị trường Mỹ. Ví dụ, Intel đã thông báo rằng họ có khả năng sẽ thuê công ty ngoài cho phần lớn công việc sản xuất chip tiên tiến của mình vì những “lỗi quy trình” mà họ đã gặp phải trong sản xuất chip bán dẫn 7nm – một quyết định được đưa ra ngay cả khi chính phủ Hoa Kỳ đã nói rõ rằng ngành công nghiệp bán dẫn là một trong ưu tiên cho việc kêu gọi công ty quay về của Hoa Kỳ và đã chuẩn bị hỗ trợ tín dụng thuế và trợ cấp mới nhằm hỗ trợ nó [29]. Một số nhà phân tích tài chính cho rằng đây là quyết định đúng đắn đối với Intel về việc bán nhà máy của mình và tập trung vào thiết kế sẽ hiệu quả hơn, đồng thời cho phép các công ty khác chỉ tập trung vào sản xuất để sản xuất cho Intel. Nhưng nếu chỉ nghĩ đến hiệu quả không thôi, điều đó sẽ gây tổn hại nghiêm trọng cho cơ sở công nghiệp của Hoa Kỳ và cho một ngành công nghiệp quan trọng đối với an ninh và khả năng cạnh tranh của Hoa Kỳ, vì việc thuê công ty ngoài sản xuất của nhà sản xuất chip lớn nhất Mỹ sẽ làm cho kiến thức sản xuất chip tồn tại ở Hoa Kỳ về cơ bản bị teo đi, và do đó làm cho mọi khả năng sản xuất trong tương lai của ngành này ít đi hơn đáng kể trong nhiều thập kỷ tới. Trong khi đó, bất chấp những khó khăn và tốn kém,Trung Quốc vẫn quyết tâm đạt được những khả năng sản xuất tương tự này vì họ nhận ra rằng hiệu quả không phải là giá trị liên quan duy nhất, mà việc được hưởng lợi trực tiếp từ những cách thức của năng lực sản xuất tạo ra kiến thức ngầm và chuyên môn kỹ thuật có thể gieo mầm cho một hệ sinh thái công nghiệp lớn hơn.
Một lý do quan trọng mà Intel đang hướng ra nước ngoài là vì Đài Loan và Hàn Quốc đã đầu tư rất lớn vào hệ sinh thái vốn cho cơ sở vật chất và con người trong ngành công nghiệp này và có một số khả năng phục hồi – nếu một trong các công ty của họ đánh giá sai làn sóng chip bán dẫn tiếp theo như Intel đã làm, họ có thể có nhiều khả năng “đệm” hơn vì có hệ sinh thái rộng lớn hơn hỗ trợ ngành công nghiệp. Ngược lại, Hoa Kỳ thiếu một hệ sinh thái tương đương về năng lực kỹ thuật chuyên biệt, kiến thức ngầm và mạng lưới chuyên nghiệp trong sản xuất chip. Ngành công nghiệp của nó do đó có rất ít khả năng phục hồi [30]. Nói cách khác, sản xuất chip trong nước không chỉ là cung cấp vốn – nó đòi hỏi một hệ sinh thái hỗ trợ lớn hơn để giúp có thể tạo ra khả năng phục hồi đó. Loại hệ sinh thái đó sẽ không được xây dựng trong một sớm một chiều, một phần nó sẽ phải được tạo ra với sự kiên nhẫn và trong một số trường hợp với các chính sách nhập cư tốt hơn, một số thử nghiệm cẩn thận với việc khuyến khích bản địa hóa, trợ cấp và tín dụng khi thích hợp, và một số công cụ khác. (Lời người dịch: Ngày 23-3-2021 Intel đã quyết định xây dựng ngay hai nhà máy sản xuất chip tại tiểu bang Arizona, Hoa Kỳ, đảo ngược dự tính thuê công ty ngoài để làm việc này. Đây là một tin vui cho ngành sản xuất chip của Hoa Kỳ trong lúc mà nước này đang cố gắng vươn xa hơn và củng cố vai trò lãnh đạo của nó)
Cân nhắc về khả năng cạnh tranh và khả năng phục hồi
Thách thức địa kinh tế mà Trung Quốc đặt ra lớn đến mức Hoa Kỳ sẽ cần phải khám phá các công cụ khác vượt ra ngoài các khoản tín dụng thuế và trợ cấp đơn thuần nếu họ hy vọng khôi phục, bằng cách tạo cơ hội hồi hương hoặc đa dạng hóa chuỗi cung ứng, để duy trì vị thế của mình trong cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư.
Loại chiến lược rộng này đôi khi được gọi là “chính sách công nghiệp”, đến lượt nó thường bị nhầm lẫn là một nỗ lực hẹp để chọn ra người thắng và người thua trong một ngành. Tuy nhiên, thực tế là nhiều hoạt động thông thường của chính phủ có thể được coi là “chính sách công nghiệp” và không được thiết kế để chọn người thắng và người thua. Thật vậy, nếu chính sách công nghiệp thường được hiểu là “sự can thiệp của chính phủ vào một lĩnh vực cụ thể được thiết kế để thúc đẩy triển vọng tăng trưởng của lĩnh vực đó và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế rộng lớn hơn” – đặc biệt trong trường hợp thị trường được cho là không đủ – thì nhiều thực tiễn có thể nằm dưới cái ô rộng rãi của cái gọi là chính sách công nghiệp [31]. Theo nghĩa này, chính sách công nghiệp có khắp mọi nơi và nó bao gồm các công cụ chính sách như ưu đãi thuế, trợ cấp, hiệp định thương mại, quy định, đầu tư vào cơ sở hạ tầng, hỗ trợ lực lượng lao động có tay nghề cao, trong vô số những công cụ khác. Nhiều người giải thích ý nghĩa một cách hiệu quả khi họ sử dụng thuật ngữ “chính sách công nghiệp” là một chiến lược của nhà nước nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh và khả năng phục hồi trong một lĩnh vực cụ thể, một cụm từ ít gây tranh cãi nhưng có ý nghĩa tương tự [32]. Câu hỏi đặt ra không phải là liệu Hoa Kỳ có nên theo đuổi một chiến lược như vậy hay không – từ lâu đã có sự nhất trí của lưỡng đảng rằng điều đó nên làm – mà là làm thế nào để có thể làm như vậy theo cách tránh được lãng phí và nắm bắt được nội dung và thay vào đó duy trì được khả năng phục hồi, khả năng cạnh tranh, an ninh và dẫn đầu về công nghệ so với Trung Quốc.
Đầu tiên, liên quan đến việc hồi hương công ty và đa dạng hóa chuỗi cung ứng, nhiều nước khác đã áp dụng các thực tiễn theo hướng này, nó có thể mang tính hướng dẫn cho các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ. Dù có nhiều nỗ lực của nhiều chính phủ trong việc giúp khôi phục, hoặc hồi hương hoặc đa dạng hóa chuỗi cung ứng hiện đang nằm tại Trung Quốc, chỉ có Đài Loan là đặc biệt thành công. Bắt đầu từ năm 2019, Đài Loan theo đuổi “chuỗi cung ứng không đỏ” trong các ngành công nghiệp tiên tiến chính bao gồm viễn thông, điện tử, máy móc thông minh, y sinh và năng lượng xanh [33]. Để thu hút các nhà sản xuất từ Trung Quốc trở về, Đài Loan đã sử dụng một loạt các công cụ chính sách vượt xa ra ngoài các khoản tín dụng thuế và trợ cấp, dựa vào các biện pháp như hỗ trợ tiền thuê mướn, tài chính giá rẻ, thu hồi đất và các điều khoản đơn giản hóa về tái đầu tư, cùng những biện pháp khác. Nỗ lực này đã giải quyết một cách tự giác điều mà Đài Loan gọi là “năm điểm thiếu hụt”: đất, nước, năng lượng, nhân lực và tài năng để lôi kéo các công ty quay trở lại. Quan trọng nhất, sáng kiến này được đặt tại văn phòng “InvestTaiwan” tại Bộ Kinh tế (MOEA), nơi mà người đứng đầu văn phòng mô tả là “một cửa hàng duy nhất để giúp các nhà sản xuất trở về nhà một cách suôn sẻ.” [34]. Kể từ khi thành lập vào năm 2019, văn phòng đã thành công trong việc thu được 33 tỷ đô la Mỹ về mặt đầu tư, điều này đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Đài Loan. Thành công của văn phòng này chắc chắn được thúc đẩy một phần bởi thuế quan của Hoa Kỳ đánh vào Trung Quốc, nhưng nó cũng là do tạo được sự dễ dàng mà một văn phòng có thể làm, để trở thành đầu mối liên lạc duy nhất cho tất cả các công ty đang nghĩ đến việc rời khỏi Trung Quốc và sự sẵn sàng của văn phòng đó chủ động làm việc với các doanh nghiệp để giải quyết một loạt các mối quan tâm, ngoài các câu hỏi về tín dụng và trợ cấp.
Thứ hai, liên quan đến nỗ lực tăng cường khả năng cạnh tranh và khả năng phục hồi trong các ngành công nghệ cao, một loạt các quốc gia đã áp dụng các kế hoạch “chính sách công nghiệp”. Như đã thảo luận, Trung Quốc có chiến lược Made in China 2025 và hiện là kế hoạch cơ sở hạ tầng kỹ thuật số trị giá 1,4 nghìn tỷ USD. Với các nước khác, Đức có Công nghiệp 4.0, Vương quốc Anh đã phát hành Chiến lược Công nghiệp và một loạt các quốc gia khác cũng đang thử nghiệm những nỗ lực tương tự.
Trong hai mươi năm qua, nếu chính phủ Hoa Kỳ sẵn sàng thử nghiệm các công cụ và kỹ thuật này hơn để thúc đẩy các ngành công nghệ cao của mình, thì có thể – mặc dù không có nghĩa là đảm bảo – rằng bối cảnh cạnh tranh với Trung Quốc có thể trông rất khác so với hôm nay. Phương pháp tiếp cận đã giúp khôi phục ngành công nghiệp bán dẫn của Hoa Kỳ vào những năm 1980 với SEMATECH (Semiconductor Manufacturing Technology) và giúp xúc tác ngành công nghiệp sinh học gen trong cùng thời kỳ với dự án bộ gen người có thể đã được thử nghiệm trong các ngành công nghiệp khác. Và ít nhất, những nỗ lực mạnh mẽ hơn để cứu các ngành công nghệ cao đang gặp khó khăn cũng có thể đã là những điều rất đáng làm để có hậu quả tốt. Thật vậy, vào nhiều thời điểm khác nhau trong hai thập kỷ qua, Hoa Kỳ đã can thiệp để cứu các ngành như tài chính, ô tô và bảo hiểm. Tuy nhiên, những nỗ lực đó, nói chung đã không mở rộng đến các công ty tiên phong công nghệ cao. Ví dụ, chính phủ Hoa Kỳ đã không can thiệp để cứu Motorola hay Lucent, những công ty mà ngày nay có thể đã hình thành nền tảng của ngành công nghiệp 5G của Mỹ. Tương tự, nếu Hoa Kỳ đưa ra chính sách đổi mới công nghệ mạnh mẽ hơn để duy trì sản xuất chất bán dẫn, thì khả năng ngành này bị suy giảm – và khả năng mất nguồn sản xuất của Intel cho công ty khác – có thể tránh được. Thay vì than thở về những gì có thể đã xảy ra, ôn lại quá khứ có thể là một hướng dẫn hữu ích cho một tương lai cạnh tranh hơn. Theo đó, điều đáng chú ý là nếu Washington có những động thái đúng đắn ngay từ bây giờ, rất có thể bối cảnh cạnh tranh với Trung Quốc trong hai thập kỷ tới có thể sẽ có tác động tích cực và đáng kể.
Đối với Hoa Kỳ sau này, như kinh nghiệm với Intel cho thấy, câu hỏi cốt lõi sẽ là, làm thế nào Washington có thể đảo ngược sự mất mát hiểu biết chuyên môn và kinh nghiệm trong các ngành công nghiệp chủ chốt và trong một số trường hợp cụ thể, thu hút các công ty nước ngoài đến Hoa Kỳ và xây dựng kho kiến thức ngầm để có thể tạo nền tảng cho khả năng phục hồi sản xuất trong tương lai. Những nỗ lực này có thể sẽ đòi hỏi một loạt các công cụ chính sách để thúc đẩy sản xuất của Hoa Kỳ hoặc khuyến khích những người khác đến sản xuất tại Hoa Kỳ. Chúng có thể bao gồm trợ cấp, giảm thuế, đầu tư vào giáo dục và đào tạo, sử dụng các chính sách mua sắm của chính phủ để khuyến khích sản xuất địa phương, sản xuất do nhà nước ủy quyền (ví dụ: theo Đạo luật sản xuất quốc phòng), các hiệp định thương mại được cấu trúc cẩn thận có lợi cho sản xuất trong nước và kiểm soát xuất khẩu [35]. Trong quá khứ, đặc biệt là trước sức hấp dẫn của thị trường Hoa Kỳ, những nỗ lực tương tự đã giúp thu hút các nhà sản xuất ô tô Nhật Bản đến Hoa Kỳ, với các công ty như Toyota sản xuất 70% số ô tô mà họ bán cho người Mỹ tại các nhà máy ở Hoa Kỳ. Bằng cách vượt ra ngoài các khoản trợ cấp và tín dụng thuế đơn giản, Hoa Kỳ có thể xây dựng một hệ sinh thái rộng lớn hơn để duy trì và thu hút các ngành công nghiệp tiên tiến.
Dưới đây là một số chính sách quan trọng đối với nỗ lực này.
(Xin xem tiếp phần 2: Khuyến nghị cho chính sách của Hoa Kỳ)
Tác giả Rush Doshi |
Về Tác giả: Rush Doshi Là cựu chuyên gia của viện Brookings, Giám đốc Sáng kiến Chiến lược Trung Quốc của Brookings và là thành viên trong Chính sách Đối ngoại của Brookings. Ông cũng là thành viên ở Trung tâm Paul Tsai Trung Quốc của Trường Luật, Đại học Yale và là thành viên của lớp khai giảng cho các nghiên cứu sinh lớp Wilson Trung Quốc,( viện nghiên cứu Wilson được thành lập năm 1968 bởi Quốc Hội Hoa Kỳ để tưởng nhớ cố Tổng Thống Woodrow Wilson). Nghiên cứu của ông tập trung vào đại chiến lược của Trung Quốc cũng như các vấn đề an ninh Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Ông hiện đang phục vụ trong chính quyền Biden.
Thứ sáu, ngày 31 tháng 7 năm 2020
Xem thêm: Những bài viết / dịch của Lê Nguyễn
CHÚ THÍCH:
[1] Điều trần này rút ra từ cuốn sách sắp xuất bản của tác giả. Xem Rush Doshi, The Long Game: The Great Strategy of Trung Quốc to Displace American Order (Oxford: Oxford University Press, 2021).
[2] Michael Brown, Eric Chewning và Pavneet Singh, “Chuẩn bị Hoa Kỳ cho cuộc thi Marathon siêu cường với Trung Quốc,” Viện Brookings, tháng 4 năm 2020, https://www.brookings.edu/wp-content/uploads/2020/04/ FP_20200427_superpower_marathon_brown_chewning_singh.pdf .
[3] Orville Schell and John Delury, Wealth and Power: China Long March to the Twenty First Century (New York: Random House, 2013).
[4] “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là gì? Tập Cận Bình đã mô tả bản thiết kế như thế này! [第四 次 工业 革命 什么 样? 习近平 这样 描绘 蓝图!]. ” Qiushi [求 是 网], ngày 27 tháng 7 năm 2018. http://www.qstheory.cn/zhuanqu/2018-07/27/c_1123186013.htm .
[5] “Tập Cận Bình: Đi theo xu hướng thời đại và đạt được sự phát triển chung [习近平 : 顺应 时代 潮流 实现 共同 发展].” Nhân dân Nhật báo [人民日报], ngày 26 tháng 7 năm 2018. http://cpc.people.com.cn/n1/2018/0726/c64094-30170246.html .
[6] Julian Baird Gewirtz, “Hành trình dài của Trung Quốc để giành ưu thế về công nghệ”, Foreign Affairs , ngày 27 tháng 8 năm 2019, https://www.foreignaffairs.com/articles/china/2019-08-27/chinas-long-march-technological-supremacy .
[7] Jin Canrong [金灿荣]. “Jin Canrong: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư chủ yếu là sự cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc, và Trung Quốc có cơ hội chiến thắng cao hơn [金灿荣 : 第四 次 工业 革命 主要 是 中美 之间 的 竞争 , 且 中国 胜算 更大]. ” Guancha [观察者 网], ngày 29 tháng 7 năm 2019. https://www.guancha.cn/JinCanRong/2019_07_29_511347_s.shtml .
[8] Zhu Feng [朱 锋]. “Tóm tắt Nghiên cứu hàn lâm gần đây về ‘Những thay đổi lớn chưa từng thấy trong một thế kỷ’ [近期 学界 关于“ 百年 未有 之 大 变局 ”研究 综述].” Diễn đàn Nhân dân, Biên giới Học thuật [人民 论坛 • 学术 前沿], no. 7 (2019).
[9] Li Jie [李杰]. “Hiểu sâu sắc và nắm bắt được“ những thay đổi lớn chưa từng thấy trong một thế kỷ qua của thế giới [深刻 理解 把握 世界 “百年 未有 之 大 变局“]. ” Qiushi [求 是 网], ngày 3 tháng 9 năm 2018. http://www.qstheory.cn/llwx/2018-09/03/c_1123369881.htm .
[10] Beethika Khan, Carol Robbins và Abigail Okrent, Tinh trang Khoa học và Kỹ thuật Hoa Kỳ 2020 (Washington, DC: National Science Foundation, 2020), https://ncses.nsf.gov/pubs/nsb20201/global-rd .
[11] Arthur Herman, “Mối đe dọa của máy tính lượng tử đối với an ninh Mỹ”, Wall Street Journal , ngày 10 tháng 11 năm 2019, https://www.wsj.com/articles/the-quantum-computing-threat-to-american-security-11573411715 .
[12] Neel V. Patel, “Trung Quốc đang đánh bại Mỹ khi nói đến an ninh lượng tử”, MIT Technology Review, ngày 12 tháng 12 năm 2019, https://www.technologyreview.com/2019/12/12/131600/china-is– beat-the-us-when-it-come-to-quantum-security / #: ~: text = Prisco% 20says% 20the% 20China% 20is, mặc dù% 20this% 20number% 20is% 20disputed) .
[13] Ashwin Acharya và Zachary Arnold, Chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo của Trung Quốc: Phát hiện tạm thời (Washington, DC: Trung tâm bảo mật và công nghệ mới nổi, 2019), https://cset.georgetown.edu/wp-content/uploads/Chinese-Public-AI-RD-Spending-Provisional-Findings-1.pdf
[14] Những nguồn này được thảo luận chi tiết hơn trong Rush Doshi, The Long Game: The Great Strategy to Displace American Order (Oxford: Oxford University Press, 2021) của Trung Quốc . Ví dụ điển hình, xem Zhang Yunling [张蕴岭], Yang Guangbin [杨光斌], Wei Ling [魏 玲], Zhu Feng [朱 锋], Jin Canrong [金灿荣] và Xie Tao [谢 韬]. “Làm thế nào để nhận ra và hiểu được những thay đổi lớn lao trong một thế kỷ [如何 认识 和 理解 百年 大 变局].” Viện Charhar [察哈尔 学会], ngày 28 tháng 3 năm 2019. http://www.charhar.org.cn/newsinfo.aspx?newsid=14706 .
[15] “Li Keqiang: Internet + Double Innovation + Made in China 2025 sẽ khai sinh ra ‘cuộc cách mạng công nghiệp mới’ [李克强 : 互联网 + 双 创 + 中国 制造 2025 催生 一场“ 新 工业 革命 ”].” Tân Hoa Xã [新华网], ngày 15 tháng 10 năm 2015. http://www.xinhuanet.com/politics/2015-10/15/c_1116825589.htm .
[16] Anjani Trivedi, “Trung Quốc đang chiến thắng trong cuộc chiến 5G nghìn tỷ đô la”, Washington Post , ngày 12 tháng 7 năm 2020, https://www.washingtonpost.com/business/china-is-winning-the-trillion-dollar-5g-war /2020/07/12/876cb2f6-c493-11ea-a825-8722004e4150_story.html.
[17] Tai Ming Cheung và cộng sự, Lập kế hoạch Đổi mới: Tìm hiểu Kế hoạch Phát triển Công nghệ, Năng lượng, Công nghiệp và Quốc phòng của Trung Quốc (Washington, DC: Ủy ban Đánh giá Kinh tế và An ninh Hoa Kỳ-Trung Quốc, 2016), https://www.uscc.gov /sites/default/files/Research/Planning%20for%20Innovation%20-%20Undilities%20China’s%20Plans%20for%20Tech%20Energy%20Industrial%20and%20Defense%20Development072816.pdf .
[18] Made in China 2025: Tham vọng toàn cầu được xây dựng dựa trên sự bảo vệ của địa phương (Washington, DC: Phòng Thương mại Hoa Kỳ, 2017), https://www.uschamber.com/sites/default/files/final_made_in_china_2025_report_full.pdf .
[19] Jin. “Jin Canrong: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư chủ yếu là sự cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc, và Trung Quốc có cơ hội chiến thắng cao hơn [金灿荣 : 第四 次 工业 革命 主要 是 中美 之间 的 竞争 , 且 中国 胜算 更大]. ”
[20]“Liệu Hoa Kỳ có thể chấm dứt kiểm soát Chuỗi cung ứng toàn cầu”, Bloomberg, ngày 9 tháng 6 năm 2020, https://www.bloombergquint.com/global-economics/why-the-u-s-can-t-easily-break-china-s-grip-on-supply-chains
[21] Lindsay Gorman, “Hoa Kỳ cần phải tham gia vào trò chơi tiêu chuẩn — Với nền dân chủ có tư duy”, Lawfare, ngày 2 tháng 4 năm 2020, https://www.lawfareblog.com/us-needs-get-standards-game%E2%80%94-minded-democracies
[22] “Hãy hành động và chiến đấu đến chết để giành chiến thắng trong cuộc chiến bảo vệ danh dự của Lenovo! [行动 起来 , 誓死 打赢 联想 荣誉 保卫 战!], ”Bài đăng WeChat, ngày 16 tháng 5 năm 2018, https://mp.weixin.qq.com/s/JDlmQbGFkxu-_D2jsqNz3w .
[23] Matthew Fulco, “Liệu Đài Loan có chiến thắng trong Chiến tranh Thương mại Mỹ-Trung ?,” Chủ đề Kinh doanh Đài Loan – AmCham Đài Bắc, ngày 16 tháng 8 năm 2019, https://topics.amcham.com.tw/2019/08/taiwan-winning-trade-war/
[24] Simon Denyer, “Nhật Bản giúp 87 công ty tách khỏi Trung Quốc sau đại dịch bộc lộ sự tuân thủ quá mức”, Washington Post , ngày 21 tháng 7 năm 2020, https://www.washingtonpost.com/world/asia_pacific/japan-helps-87-companies-to-exit-china-after-pandemic-exposed-overreliance/2020/07/21/4889abd2-cb2f-11ea-99b0-8426e26d203b_story.html
[25] “Tuyên bố giới thiệu của Ủy viên Phil Hogan tại cuộc họp không chính thức của các Bộ trưởng Thương mại Liên minh Châu Âu,” Ủy ban Châu Âu, ngày 16 tháng 4 năm 2020, https://ec.europa.eu/commission/commissioners/2019-2024/hogan/announcements/introductory-statement-commissioner-phil-hogan-informal-meeting-eu-trade-ministers_en
[26] Jodi Xu Klein, “Dự án Arizona của TSMC có phải là chuỗi cung ứng công nghệ của Hoa Kỳ giành chiến thắng không? Hay một câu chuyện cảnh giác ?, ” South China Morning Post , ngày 10 tháng 6 năm 2020, https://www.scmp.com/tech/innovation/article/3088489/tsmcs-arizona-project-us-tech-supply-chain-win-or-cautionary-tale
[27] Joe McDonald, “Các công ty khuyến khích phụ thuộc ít hơn vào Trung Quốc, nhưng ít phản hồi”, Associated Press News, ngày 29 tháng 6 năm 2020, https://apnews.com/bc9f37e67745c046563234d1d2e3fe01 và “Những thách thức về chuỗi cung ứng đối với các công ty Hoa Kỳ ở Trung Quốc,” AmCham China, Ngày 17 tháng 4 năm 2020, https://www.amchamchina.org/about/press-center/amcham-statement/supply-chain-challenges-for-us-companies-in-china .
[28] Damien Ma (@damienics), Bài đăng trên Twitter, ngày 30 tháng 6 năm 2020, 4:54 chiều, https://twitter.com/damienics/status/1278114690871300101?s=20 .
[29] Ian King, “Intel lao dốc khi cân nặng thoát khỏi chip sản xuất”, Bloomberg, ngày 23 tháng 7 năm 2020, https://www.bloomberg.com/news/articles/2020-07-24/intel-considers-what-was-once-heresy-not-manufacturing-chips
[30] David P. Goldman, “Intel đang chế nhạo việc reshoring”, Asia Times , ngày 25 tháng 7 năm 2020, https://asiatimes.com/2020/07/intel-is-making-a-mockery-of-reshoring/ .
[31] Uri Dadush, “Chính sách công nghiệp: Hướng dẫn cho sự bối rối”, Trung tâm chính sách OCP, tháng 1 năm 2016 https://carnegieendowment.org/files/OCPPC-PB-1605industrialpolicy.pdf .
[32] Reda Cherif và Fuad Hasanov, “Tất cả các con đường để dẫn đầu: Chính sách công nghiệp, đổi mới và tăng trưởng bền vững,” IMFBlog, ngày 13 tháng 11 năm 2019, https://blogs.imf.org/2019/11/13/all-the-way-to-the-top-industrial-policy-innovation-and-sustained-growth/
[33] Fulco, “Liệu Đài Loan có chiến thắng trong Chiến tranh Thương mại Mỹ-Trung không?”
[34] Fulco, “Liệu Đài Loan có chiến thắng trong Chiến tranh Thương mại Mỹ-Trung không?”
[35] Geoffrey Gertz, “Làm thế nào để giảm cân bằng”, Chính sách đối ngoại, ngày 24 tháng 7 năm 2020, https://foreignpolicy.com/2020/07/24/how-to-deglobalize/ .