03 avril 2021

Đài loan hoàn toàn không có chủ quyền trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam

Phuc Dinh Kim

Hãy nhớ năm xưa, người Trung Quốc, người Đài Loan, người Hongkong và người Ma Cao đã ngồi chung trên một chiếc thuyền để đi đấu tranh chủ quyền với Nhật Bản về Senkaku.

------

1. Quần đảo Hoàng Sa ở vào khoảng giữa vĩ tuyến 16° – 17° và kinh tuyến 111° – 113° đông, cách Huế khoảng 490 km và Yulin (Du Lâm), hải cảng phía Nam của đảo Hải Nam khoảng 350 km.


Toàn thể quần đảo Hoàng Sa có diện tích khoảng 15.000 km², gồm trên 30 đảo nhỏ và những hòn đá nhô khỏi mặt nước, chia ra làm hai nhóm chính: Nhóm Đông (Amphitrite) mà đảo lớn nhất là đảo Phú Lâm (Woody Island), dài không quá 4 km, rộng khoảng 2-3 km; và Nhóm Tây (Crescent) mà đảo lớn nhất mang tên Hoàng Sa (Pattle Island), diện tích khoảng 0,3 km². Đảo Phú Lâm cách đảo Hoàng Sa khoảng 87 km.

Quần đảo Trường Sa ở vào khoảng 6o50’ đến 12° vĩ Bắc và từ 111°20’ kinh Đông, cách bờ biển Việt Nam khoảng 400 km, cách Philippines khoảng 300 km và cách Trung Quốc khoảng 1.500 km.

Toàn thể quần đảo Trường Sa có diện tích khoảng 160.000 km², gồm trên 100 đảo và những hòn đá nhô lên mặt biển, trong đó có khoảng 26 đảo hoặc đá chính.

Người dân Việt Nam đã phát hiện ra các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu đời. Những tài liệu lịch sử để lại đã chứng minh quan hệ chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo này ít ra là từ thời Chúa Nguyễn, vào thế kỷ thứ XVII.

Cho đến ngày bị Pháp đô hộ, các triều đại kế tiếp trị vì nước Việt Nam đã thực sự nắm chủ quyền trên hai quần đảo này mà không có nước nào cạnh tranh và coi các hải đảo này hoàn toàn thuộc lãnh thổ của nước ta.

Mãi đến đầu thế kỷ XX, năm 1909, trước sự đe doạ của chủ nghĩa bành trướng Nhật Bản, Trung Hoa mới bắt đầu chú ý tới quần đảo Hoàng Sa và sau này, trong những năm 1928, 1932, biểu hiện ý đồ tranh giành chủ quyền với chính quyền bảo hộ Pháp - chỉ biểu hiện ý đồ chứ không có hành động chiếm hữu thực sự.

Cũng cần nhấn mạnh là lúc bấy giờ cho đến hết Chiến tranh thế giới thứ nhất, đòi hỏi của Trung Quốc chỉ nhằm vào quần đảo Hoàng Sa chứ không đả động đến quần đảo Trường Sa.

Trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, với tư cách là quốc gia kế thừa, Pháp không hề khước từ chủ quyền trên hai quần đảo, tiếp tục khẳng định quan hệ chủ quyền và phản đối những yêu sách của Trung Quốc.

Trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ 2, Nhật Bản đã chiếm các hải đảo trên dãy Hoàng Sa và Trường Sa để làm căn cứ quân sự.

Sau Chiến tranh thế giới thứ 2, lợi dụng danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật Bản, năm 1947, quân đội Tưởng Giới Thạch đổ bộ lên đảo Phú Lâm (thuộc Nhóm Đông của quần đảo Hoàng Sa) và đảo Ba Bình (tên quốc tế là Itu Aba, tên tiếng Hoa là Thái Bình) của quần đảo Trường Sa, trong khi đó, quân đội Pháp đóng ở đảo Hoàng Sa (thuộc Nhóm Tây của quần đảo Hoàng Sa) và một số đảo khác của quần đảo Trường Sa.

Chính phủ Bảo Đại chính thức cho quân đội thay thế Pháp ở quần đảo Hoàng Sa năm 1950 và chính quyền Ngô Đình Diệm ở quần đảo Trường Sa năm 1956.

Sau khi chiến thắng ở đại lục, quân đội Trung Quốc thay thế quân đội Quốc Dân đảng Trung Hoa ở đảo Phú Lâm (thuộc quần đảo Hoàng Sa) năm 1956, trong khi đó Đài Loan vẫn tiếp tục thường xuyên có mặt ở đảo Ba Bình (thuộc quần đảo Trường Sa).

Năm 1974, quân đội Trung Quốc đã sử dụng vũ lực, loại quân đội của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ra khỏi quần đảo Hoàng Sa, và năm 1988, đổ bộ lên một số hòn đảo của quần đảo Trường Sa.

2. Theo báo chí Đài Loan ngày 14/06/2009, lực lượng tuần duyên nước này rất có thể sẽ tăng cường hiện diện tại khu vực đảo Ba Bình đang có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc và Việt Nam. Nguyên nhân đưa ra là vì số lượng tàu đánh cá nước ngoài ở trong vùng biển nói trên đã gia tăng đáng kể.

Theo từ điển bách khoa, đảo Ba Bình nằm ở tọa độ 10, 23 độ vĩ bắc, 114, 22 độ kinh đông, là đảo lớn nhất thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam; đảo có chu vi 2,8 km, diện tích 43,2 ha và có một vòng đá san hô bao quanh. Chiều dài đảo là 1.470m, chiều rộng 500m, có độ cao trung bình 2,8m; trên đảo có mọc các loại cây dừa, chuối, đu đủ, cây cọ cao khoảng 7m và nhiều bụi rậm; trên đảo có một giếng nước và có nhiều công sự.

Theo học giả Vương Hồng Sển, tên của nó có thể bắt nguồn từ việc một vị quan cai trị người Pháp phải đặt mật hiệu cho hòn đảo này nhưng còn chưa nghĩ ra. Sau đó ông đặt tên cho nó theo hai người hầu ở trong nhà ông là Chị Tư và Chị Ba. Vì người Pháp không đọc âm "h" nên thành Itu Aba, đó là lý do tại sao đảo Ba Bình có tên quốc tế là Itu Aba.

Đài Loan hiện có một căn cứ trên đảo Ba Bình, hòn đảo lớn nhất trên quần đảo Trường Sa, Tuần duyên Đài Loan hiện có ba chiếc tàu tuần tra cùng với khoảng 100 người lính đồn trú tại đấy. Chính quyền Đài Bắc trong thời gian qua cũng đã củng cố đáng kể cơ sở của họ trên đảo này bằng cách cho xây một phi đạo, dùng vào việc tiếp viện hậu cần hay trợ giúp nhân đạo.

Theo ghi nhận của chính quyền Đài Bắc, tính đến cuối tháng 5/2009, đã có hơn 500 tàu nước ngoài hiện diện trong vùng biển bao quanh đảo Ba Bình, đại đa số là tàu Trung Quốc. nhưng cũng có tàu của Philippines và Việt Nam. Đây là một số lượng cao hơn gấp đôi số tàu ngoại quốc thống kê được trong toàn năm 2008.

Trả lời câu hỏi của báo chí trước sự kiện ngày càng có nhiều tàu đánh cá của các nước khác trong vùng biển Ba Bình, phát ngôn viên tuần duyên Đài Loan xác định là họ đang tính đến việc phái thêm nhiều tàu tuần tra đến khu vực.

Về phần mình, bộ ngoại giao Đài Loan một lần nữa lên tiếng khẳng định chủ quyền của họ trên đảo Ba Bình và quần đảo Hoàng Sa, hai khu vực đang tranh chấp với Việt Nam và Trung Quốc, cùng với dải Trung Sa (Macclesfield Bank) và đảo Đông Sa (Pratas), tranh chấp với Trung Quốc.

Lời khẳng định này được đưa ra đúng một hôm sau khi chính quyền của Tổng thống Mã Anh Cửu, thân Bắc Kinh, bị đảng Dân Tiến đối lập tố cáo là không bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và để yên cho Trung Quốc rầm rộ đưa tàu xâm nhập hải phận của mình.

Đài Loan hoàn toàn không có chủ quyền đối với đảo Ba Bình của Việt Nam.

Nhìn lại lịch sử chúng ta thấy rằng, tháng 10/1946, trong khi quân đội Pháp và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đang bận đối phó với cuộc chiến tranh toàn diện sắp xảy ra, thì 4 chiến hạm cùng các binh sỹ thuộc hạm đội đặc biệt của Trung Hoa Dân Quốc xuất phát từ cảng Ngô Tùng đổ bộ lên Hoàng Sa. Ngày 29/11/1946, các tàu Vĩnh Hưng và Trung Kiên của quân Tưởng Giới Thạch tới đảo Hoàng Sa; tàu Thái Bình và Trung Nghiệp đến Trường Sa.

Đài Loan luôn tuyên bố chủ quyền của mình trên vùng đất này nhưng chỉ là những lời tuyên bố vô căn cứ.

Chúng ta biết rằng, sau khi hội nghị San Francisco, 1951 bế mạc, cả Trung Quốc lẫn Ðài Loan không có dịp nào để lên tiếng về vấn đề chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho tới năm 1956 khi Philippines lên tiếng đòi chủ quyền trên quần đảo Trường Sa.

Trong hai năm 1949 và 1950, Tomas Cloma, chủ một đội ngư thuyền và thương thuyền và giám đốc một trường hàng hải đã khám phá thấy một nhóm đảo lớn nhỏ ở cách đảo Palawan của Philippines khoảng 400 dặm về phía Tây. Ông hy vọng lập một nhà máy nước đá và một nhà máy đóng đồ hộp ở trên một hòn đảo lớn nhất ở đây, cũng như là khai thác phân chim trong những hòn đảo kế cận.

Tuy nhiên, mãi đến đầu năm 1956 Cloma mới lại tiếp tục khám phá những hòn đảo này trong một chuyến du hành 38 ngày. Ngày 15.3.1956, chiếc tàu PMI IV vẫn được dùng để huấn luyện các sinh viên trường hàng hải của Cloma do thuyền trưởng Filemon Cloma, em trai Tomas Cloma, điều khiển đã lên đường ra các hòn đảo này chiếm đóng. 40 thủy thủ trên tàu, tất cả đều có quốc tịch Philippines, đã dựng quốc kỳ Philippines trên một hòn đảo và chính thức tuyên bố chiếm hữu đảo này theo tục lệ quốc tế. Tại mỗi hòn đảo họ tới chiếm đóng, họ đều niêm yết cáo thị chiếm hữu. Họ đặt tên những hòn đảo ở đây, tất cả có 53 đảo và cù lao với diện tích tổng cộng 64.976 dặm vuông, là “Freedomland” hay Ðất Tự do.

Ngày 15.5.1956 Cloma chính thức thông báo cho Phó Tổng thống kiêm Ngoại trưởng Philippines Carlos P. Garcia hay là một số công dân Phi đã quan sát, trắc lượng và chiếm hữu “một lãnh thổ ở Nam hải, bên ngoài hải phận Philippines và không thuộc thẩm quyền quản hạt của nước nào”. Cloma cũng nói thêm là lãnh thổ này đã được Cloma và các đồng sự tuyên bố chiếm hữu.

Mặt khác, Cloma đã gửi “cáo thị” về việc chiếm hữu này tới báo chí trong và ngoài nước, yêu cầu đăng tải theo thủ tục luật quốc tế. Cáo thị nhấn mạnh là sự tuyên bố này căn cứ vào quyền khám phá và chiếm hữu công khai.

Sáu ngày sau, ngày 21.5.1956, Cloma gửi một bức thư thứ nhì cho Bộ Ngoại giao Philippines để thông báo cho Chính phủ Philippines hay là lãnh thổ mà ông tuyên bố chiếm hữu được đặt tên là “Freedomland”. Kèm theo thư là danh sách các đảo và cù lao.

Trong thư Cloma còn nói thêm là:

“Kính xin lưu ý là sự tuyên bố này do ‘các công dân Philippines’ làm chứ không phải là ‘nhân danh Chính phủ Philippines’ bởi vì chúng tôi không được phép làm như vậy. Tuy nhiên việc này sẽ có hậu quả là lãnh thổ trở thành một phần của Philippines. Vì lý do đó chúng tôi hy vọng và thỉnh cầu Chính phủ Philippines ủng hộ cùng là bảo vệ sự tuyên bố của chúng tôi và xin cũng đừng đưa một tuyên bố nào khác ra Liên Hiệp Quốc để tránh khỏi khuyến khích, xúi giục sự phản đối của các nước khác”.

Sau đó Cloma chính thức tuyên bố thành lập một chính quyền riêng biệt cho quần đảo Freedomland và gửi một bản tuyên cáo về việc thành lập chính quyền này cho Ngoại trưởng Philippines ngày 6.7.1956. Bản tuyên bố còn yêu cầu Philippines cho quần đảo hưởng qui chế bảo hộ.

Trong một buổi họp báo tại Manila ngày 19.5.1956, Phó Tổng thống kiêm Ngoại trưởng Philippines, ông Carlos P. Garcia tuyên bố là một nhóm đảo ở Nam hải, kể cả đảo Ba Bình và đảo Trường Sa, đúng lý ra phải thuộc về Philippines vì chúng kế cận nước này.

Các sự kiện và lời tuyên bố này đã đưa đến những phản ứng mãnh liệt mà đặc biệt là Trung Quốc và Đài Loan.

Ngày 29.5.1956 Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã ra một tuyên bố về vấn đề chủ quyền trên hai quần đảo, nội dung như sau:

“Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa long trọng tuyên bố: sự xâm phạm chủ quyền hợp pháp của Trung Quốc đối với quần đảo Nam Sa của bất cứ quốc gia nào, vì bất cứ lý do nào, và bằng bất cứ phương tiện nào, cũng tuyệt đối không thể dung thứ được”.

Về phía Ðài Loan, Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, qua đại sứ ở Manila, đã phản kháng mạnh mẽ với Chính phủ Philippines và viện vào cớ là quần đảo này thuộc về Trung Quốc từ thế kỷ thứ 15 [Chúng tôi không biết luận cứ của Ðài Loan ra sao và căn cứ vào đâu Ðài Loan cho là chủ quyền đó có từ thế kỷ thứ 15].

Song song với việc phản kháng tại Manila, phát ngôn viên Ðài Loan còn loan tin Ðài Loan phái một lực lượng đặc nhiệm tới quần đảo Trường Sa “có thể và chắc chắn sẽ xảy ra” và quả thực một hạm đội Ðài Loan đã được phái tới nơi trong một thời gian ngắn để ngăn chặn mọi việc không hay xảy ra.

Nhận được tin này, Ngoại trưởng Philippines vội vàng chỉ thị cho Ðại sứ Philippines tại Ðài Bắc là Narciso Ramos báo cho Chính phủ Ðài Loan “không nên quá e ngại về diễn biến của tình hình”.

Trong khi đó ở đảo Ba Bình, hải quân Ðài Loan đã bốc dỡ những cột mốc đánh dấu mà họ dựng lên trên đảo trong chuyến đi thứ nhất và đã dựng một dấu hiệu của Trung Hoa Dân Quốc trên cột mốc cũ của Nhật Bản và cũng vẽ dấu hiệu Trung Hoa trên tường một căn nhà đổ nát trước kia thuộc trại lính Nhật Bản.

Mười lăm năm lại trôi qua khi không có dịp nào để Ðài Loan lên tiếng về vấn đề chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cho tới năm 1971.

Trong một buổi họp báo tại điện Malacanang ngày 10.7.1971, trước buổi khai mạc hội nghị cấp cao lần thứ 6 của Hiệp hội các quốc gia châu Á và Thái Bình dương tại Manila, Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos tố cáo quân đội Ðài Loan, lúc đó đang chiếm đóng ở đảo Ba Bình (Ligaw theo tên Philippines), đã đặt những ổ trọng pháo để tăng cường sự phòng thủ đảo này và trong một vài trường hợp đã bắn cảnh cáo vào những phi cơ và tàu của Philippines đi trinh sát trong vùng. Ông cũng nói thêm là Hội đồng An ninh quốc gia Philippines trong phiên họp ngày hôm đó đã đồng thanh cho rằng vì những diễn biến nhanh chóng xảy ra trong vùng và vì đảo này ở kế cận lãnh thổ Philippines nên việc một nước ngoài chiếm đóng ở đây là một mối đe dọa trầm trọng cho nền an ninh của Philippines. Ngoài ra, ông còn nhắc lại quan điểm của Philippines là quần đảo Trường Sa đang ở trong chế độ giám hộ trên thực tế của các quốc gia đồng minh theo Hòa ước với Nhật Bản ký tại San Francisco ngày 8.9.1951. Trong hòa ước này Nhật Bản khước từ mọi quyền, danh nghĩa và đòi hỏi đối với quần đảo này. Vẫn theo lời Marcos, vì quần đảo Trường Sa ở dưới chế độ giám hộ, không nước nào có quyền mang quân đội vào bất cứ hòn đảo nào trong nhóm quần đảo này nều không có phép và sự thỏa thuận của các quốc gia đồng minh. Sau hết, ông loan báo thêm là vì Ðài Loan thiết lập một đồn binh tại đảo Ba Bình không có phép và sự thỏa thuận của các quốc gia đồng minh nên Philippines đã yêu cầu Chính phủ Ðài Loan rút quân đội khỏi nơi này.

Lời tuyên bố của Marcos đã gây ra phản ứng tại nhiều quốc gia. Vài ngày sau khi có lời tuyên bố này, các Chính phủ Anh và Hà Lan loan báo hai nước khước từ quyền giám hộ trên quần đảo Trường Sa.

Chính quyền Sài Gòn, qua lời tuyên bố của Ngoại trưởng Trần Văn Lắm ngày 13.7.1971, tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa mà các dữ kiện lịch sử và pháp lý chứng tỏ là thuộc về Việt Nam, ít nhất là từ thế kỷ thứ 18. Ông cũng nhắc lại lời tuyên bố của cựu Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần văn Hữu tại hội nghị San Francisco ngày 7.9.1951.

Về phần Ðài Loan, Ngoại trưởng Chu Thư đã tuyên bố rằng quần đảo Nam Sa từ thời xa xưa vẫn thuộc về Trung Hoa và quân đội Ðài Loan đã chiếm đóng quần đảo này hơn 20 năm qua. Sau đó ông đã hội đàm với Ngoại trưởng Philippines Carlos Romulo, nhưng nội dung không được tiết lộ.

Ðáng tiếc là ngoại trưởng Chu Thư đã không đưa ra một chi tiết hay một thí dụ nào để chứng minh chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo này “từ thời xa xưa” và cũng không cho biết là “thời xa xưa” ấy là từ bao giờ. Chúng tôi xin nhấn mạnh ở đây để nói thêm là Ðài Loan đã cho leo thang thời gian chủ quyền. Trong lần phản ứng năm 1956, Ðài Loan nói là Trung Quốc có chủ quyền trên hai quần đảo này từ thế kỷ thứ 15, nay lại đổi thành từ thời xa xưa. Hơn nữa, họ lại cố tình che dấu tính cách bất hợp pháp của việc Quốc quân Ðài Loan chiếm đóng ở đây.

Sau khi Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam vào tháng 1/1974, Ðài Loan không những đã phụ họa với Trung Quốc trong việc đòi chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà lại còn phái thêm quân đến chiếm đóng vài hòn đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam để sẵn sàng chống lại khi cần.

Chính phủ của Tưởng Giới Thạch đã nhiều lần lên tiếng về vấn đề chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong thời gian Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa.

- Tuyên bố thứ nhất là của Bộ Ngoại giao Ðài Loan vào ngày 7.2.1974, nội dung như sau:

“Gần đây Chính phủ Việt Nam Cộng hòa tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Nam Sa (Spratly). Ðối với lời tuyên bố này, Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã cực lực phản kháng với Chính phủ Việt Nam và tái khẳng định lập trường là quần đảo này là phần lãnh thổ cố hữu của Trung Hoa Dân Quốc và không ai có thể nghi ngờ chủ quyền của Trung Hoa Dân Quốc đối với quần đảo này”.

“Quần đảo này đã bị Nhật Bản chiếm đóng trong Chiến tranh thế giới thứ 2 và được hoàn trả cho Trung Hoa Dân Quốc sau chiến tranh, vào tháng 12 năm 1946, Chính phủ Trung Hoa đã phái một hải đội tới thu hồi khỏi tay Nhật Bản. Từ đó trú quân thường trực Trung Hoa đã tới đóng ở đó. Hơn nữa, ngày 1.12.1947, Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã loan báo cùng thế giới tên tiêu chuẩn của các đảo, cù lao, ám tiêu…

“Những đảo này, tạo thành phần hoàn chỉnh lãnh thổ Trung Hoa, là một sự thực bất khả tranh nghị. Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc vì vậy cương quyết tái khẳng định chủ quyền của Trung Hoa trên quần đảo Nam Sa. Lập trường này không thể bị bất cứ nước nào thay đổi bằng bất cứ biện pháp nào”.

Chúng ta thấy điều tuyên bố này không có gì mới lạ. Nó chỉ là nhắc lại những lời tuyên bố của Trung Quốc từ trước tới nay. Cũng giống trường hợp các tuyên bố của Trung Quốc, nó thiếu sót các chứng liệu để chứng tỏ rằng chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là bất khả tranh nghị. Sự thiếu sót này làm cho luận cứ của Ðài Loan, cũng như của Trung Quốc, không có giá trị về thực tế cũng như về pháp lý.

- Tuyên bố của Tưởng Kinh Quốc ngày 24.2.1974

Mười bảy ngày sau khi Bộ Ngoại giao Ðài Loan ra bản tuyên bố nói trên, Tưởng Kinh Quốc, con trai của Tưởng Giới Thạch và lúc bấy giờ đang giữ chức Viện trưởng Hành chính viện tức Thủ tướng Chính phủ Ðài Loan, trong một cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Roy Rowan của tạp chí Time ngày 24.2.1974 tại Ðài Bắc cũng đã đề cập tới vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa như sau:

“Hỏi: Xin Thủ tướng cho rõ quan điểm của ngài về vụ tranh chấp đối với hai nhóm quần đảo Paracel và Spratly. Liệu quý quốc có phòng vệ đội trú quân đóng ở quần đảo Spratly của quý quốc khi bị tấn công không?

Ðáp: Chúng ta cần phải duyệt lại lịch sử các quần đảo này. Cách đây nhiều năm, Chính phủ chúng tôi đã duy trì lực lượng tại quần đảo Paracel. Lực lượng này chỉ là một phần của hệ thống phòng thủ đảo Hải Nam. Việc chúng tôi rút các lực lượng đó đi không có nghĩa là chúng tôi từ bỏ chủ quyền của chúng tôi trên quần đảo Paracel. Việc này chẳng qua cũng giống như việc chúng tôi từ bỏ chủ quyền của chúng tôi trên đảo Hải Nam. Quần đảo Spratly được hoàn trả cho Trung Hoa Dân Quốc đồng thời với việc thu hồi Ðài Loan khỏi tay Nhật Bản. Từ nhiều năm rồi binh sĩ của chúng tôi đã trú đóng ở trên hòn đảo chính của nhóm Spratly. Chúng tôi cuơng quyết làm những gì có thể được để phòng vệ quần đảo này. Tôi thấy cần phải nói rõ là quân đội của chúng tôi có bổn phận phòng vệ lãnh thổ ủy thác cho họ.

Hỏi: Liệu có thể có việc Trung Quốc tấn công nhóm Spratly không?

Ðáp: Vì cộng sản có thể tính toán lầm nên chúng tôi không thể gạt bỏ việc đó được”.

Có 4 điểm đáng chú ý trong các câu trả lời của Tưởng Kinh Quốc:

Thứ nhất, Tưởng Kinh Quốc làm như hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đương nhiên thuộc về Trung Quốc rồi nên không đưa ra một bằng chứng nào để chứng minh chủ quyền thuộc về Trung Quốc. Cũng vì thế tuy ông ta nói là “Chúng ta cần phải duyệt lại lịch sử các quần đảo này”, nhưng nói xong bỏ đấy, ông ta không đề cập tới lịch sử đó mà chỉ nói về sự từ bỏ chủ quyền trên Hoàng Sa và việc thu hồi cùng bảo vệ Trường Sa. Do đó, những ai muốn tìm hiểu xem vì lý do nào Ðài Loan nhận có chủ quyền trên hai quần đảo này không còn cách nào biết được.

Thứ hai, việc Trung Hoa Dân Quốc duy trì lực lượng tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Tưởng Kinh Quốc nói ở đây chính là một phần của hệ thống phòng thủ đảo Hải Nam của Trung Quốc.

Thứ ba, cũng vì lý do này, theo ông ta, việc Ðài Loan từ bỏ chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa cho Trung Quốc cũng giống việc từ bỏ chủ quyền đối với đảo Hải Nam. Nó không có nghĩa là Ðài Loan từ bỏ chủ quyền trên quần đảo này. Nói cách khác, Tưởng Kinh Quốc ngụ ý là dù cho quần đảo Hoàng Sa có rơi vào tay Trung Quốc thì nó vẫn còn thuộc chủ quyền của Trung Quốc, chứ không phải là của nước khác.

Thứ tư, ông ta cũng đề cập tới việc quần đảo Trường Sa hoàn trả cho Trung Hoa Dân Quốc và phòng thủ Trưòng Sa, không có thêm chi tiết gì mới lạ. Có lẽ ông không biết, hay biết mà lờ không nói đến tính cách bất hợp pháp của cái mà ông ta gọi là “hoàn trả” này.

Sau 1975 cho đến nay, Đài Loan vẫn chiếm giữ trái phép đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam và liên tục xây dựng các cơ sở hạ tầng quân sự như đường băng, pháo đài, nhà ở …

Trước đó, Đài Loan đã bố trí lực lượng Hải quân và Thủy quân lục chiến trên đảo này. Nhưng năm 1999, vì lý do khó khăn về hậu cần cho nên các lực lượng này phải rút quân và bàn giao lại cho lực lượng phòng thủ bờ biển. Một số năm gần đây, Bộ quốc phòng Đài Loan lo ngại trước sự ra tăng của Hải quân Trung Quốc ở khu vực này và đã nhiều lần đề cập tới việc đưa Hải quân trở lại đảo Ba Bình.

Tháng 11/2007, Đài Loan đã khởi công xây dựng lại đường băng trên đảo Ba Bình, xây dựng “bia kỷ niệm công trình” và tiến hành các hoạt động viếng thăm cao cấp tới đảo này. Bộ Ngoại giao Việt Nam đã có phản ứng về việc này.

Theo ông Shih Yi-che, phát ngôn viên thuộc lực lượng phòng thủ bờ biển Đài Loan cho biết, hiện nay Đài Loan đang có 3 tàu tuần tra ở khu vực Trường Sa và sẽ tiếp tục điều thêm các tàu khác tới khu vực này, vì ông cho rằng hiện nay khu vực này đang gia tăng sự hoạt động của các tàu cá nước ngoài.

Bên cạnh đó Đài Loan liên tục tuyên bố chủ quyền thông qua ngoại giao, ngày 08/5/2009 Bộ Ngoại giao Đài Loan đã lên tiếng tiếp tục khẳng định chủ quyền của họ đối với nhiều nhóm đảo trên Biển Đông sau khi Việt Nam và Malaysia gửi đơn lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên Hợp Quốc (CLCS) yêu cầu mở rộng đường danh giới phía ngoài thềm lục địa.

Động thái tăng cường lực lượng phòng thủ bờ biển của Đài Loan tới đảo Ba Bình là vi phạm tới chủ quyền của Việt Nam; lý do điều động tăng cường lực lượng chống sự gia tăng của các tàu cá nước ngoài chỉ là vỏ bọc cho những hành động nhằm tiếp tục khẳng định chủ quyền bất hợp pháp của Đài Loan đối với đảo Ba Bình.

29 tháng 3 lúc 10:58  •