Nguyễn Quang Duy
Tìm hiểu
lịch sử là công việc vô cùng thiết yếu vì có hiểu người xưa, có hiểu được lịch
sử mới hiểu được vận mệnh nước nhà mà khôi phục lại.
Trên
Diễn đàn BBC nhà báo Nguyễn Giang đưa ra một cách nhìn khá mới lạ để ghi công
và đánh giá những nhân vật lịch sử đã đóng góp cho việc truyền bá chữ Quốc ngữ.
"Các
vị truyền giáo có công tạo ra bộ mẫu chữ, nhưng việc này không có gì quá độc
đáo hay quá khó khăn và giả sử nếu không có họ thì việc đó cũng có thể làm được
sau này."
Ý kiến
cũng nói rằng Trung Hoa, Thái Lan, Ấn Độ, Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ và nhiều quốc gia
khác đều đã có những văn tự bằng tiếng La Tinh nhưng chưa bao giờ trở thành chữ
Quốc ngữ của họ.
Cũng
theo nhà báo Nguyễn Giang, Đông Kinh Nghĩa Thục chỉ xóa hàng rào cản tâm lý quá
lạc hậu để giới sỹ phu yên tâm dùng chữ Quốc ngữ.
Và rằng
chính nỗ lực tiên phong quảng bá Quốc ngữ là của trí thức miền Nam và nhờ chính
sách tiến bộ, khoa học của chính quyền Pháp tại Đông Dương tạo đà cho chữ Quốc
ngữ lan tỏa.
Nhưng
tôi nghĩ cũng lạ tại sao ba nước Việt, Miên và Lào có chung hoàn cảnh, đều là
thuộc địa của Pháp mà Miên và Lào lại không sử dụng La Tinh làm chữ Quốc ngữ.
Ở đây
cần xem công lao các vị vua cuối cùng của triều Nguyễn, dù họ không thực sự nắm
quyền thời Pháp thuộc.
Sắc lệnh
của Vua Thành Thái
Theo sử
gia Liam Kelley (2016) vào đầu thế kỷ XX cả người Pháp lẫn những nhà cách mạng
đều không đủ quyền lực để chữ Quốc Ngữ có thể lan sâu rộng xuống đến tận cấp độ
làng quê.
Qua
nghiên cứu những nguồn tài liệu trong giai đoạn này, sử gia Liam kết luận chính
nhà Nguyễn mới đi đầu trong công cuộc cải cách giáo dục.
Trong
bài "Emperor Thành Thái's Educational Revolution", sử gia Liam Kelley
(2016) đã công bố sắc lệnh của vua Thành Thái được lưu trữ trong sách Đại Nam
Hội Điển Sử Lệ Tục Biên.
Bài viết
được Nguyễn Hồng Phúc lược dịch có đoạn như sau:
"Hoàng
đế Thành Thái đã tuyên bố trong một sắc lệnh rằng vào năm trị vì thứ 18 của ông
(năm 1906), cha mẹ có thể quyết định việc cho con theo học một trường ấu học
Hán văn hoặc một chương trình giảng dạy Nam âm (Quốc ngữ).
Với
những người học theo chương trình Hán văn, sẽ có một cuốn sách giáo khoa được
soạn ra nhằm giới thiệu những từ chữ Hán theo cấp độ khó dần. Nó cũng bao gồm
một danh mục các Hán tự kèm theo phiên âm và định nghĩa bằng quốc ngữ được dùng
trong tài liệu.
…Trong
khi, một cuốn sách giáo khoa bằng quốc ngữ khác sẽ được soạn ra để dạy những
người theo chương trình học 'Nam âm' nhằm giới thiệu cho họ những thông tin cơ
bản về xứ Đông Dương, thiết chế cai trị của nó, những phong tục tập quán...
Thêm vào
đó, cũng có thêm một cuốn sách nữa được dịch từ Hán văn sang Nam âm nhằm cung
cấp những loại thông tin mà học viên đang luyện thi khoa cử cần biết. Bản dịch
này được soạn ra cho những người không muốn thi khoa cử, nhưng nó vẫn được đưa
vào chương trình để cho họ biết thêm về những gì mà những người đang luyện thi
khoa cử phải học…"
Sắc lệnh
này vô cùng quan trọng vì khi nhà vua ra lệnh sử dụng chữ Quốc ngữ là nhà vua
đã công khai ý định muốn thấy tầng lớp quan lại và sỹ phu phải thoát khỏi ảnh
hưởng Trung Hoa trong giáo dục, văn hóa, và nhất là tư tưởng.
Vừa
thoát Trung vừa chống Pháp
Xin nhắc
lại về cuộc đời vị vua trẻ tuổi.
Vua
Thành Thái lên ngôi năm 1889, đến năm 1907 bị Pháp ép thoái vị. Ngài bị quản
thúc ở Vũng Tàu rồi đến năm 1916 bị đày sang đảo Réunion.
Vua là
người cầu tiến, học tiếng Pháp, có hiểu biết khá toàn diện, cắt tóc ngắn, mặc
âu phục, phong cách của người theo tân học.
Nhà Vua
thường xuyên tiếp xúc với sỹ phu và dân chúng, đồng thời trọng dụng nhiều nhân tài,
thanh liêm, đức độ với hy vọng khôi phục và canh tân đất nước.
Sắc lệnh
cho dạy quốc ngữ chính là văn bản ủng hộ Phong Trào Duy Tân (1906) và Đông Kinh
Nghĩa Thục (1907) thúc đẩy việc theo tân học và dùng chữ quốc ngữ.
Cắt tóc
ngắn trở thành một dấu hiệu của người theo tân học.
Nhiều
thanh niên lúc ấy sắm cho mình một cái kéo, đi tuyên truyền, vận động cắt tóc
và vận động canh tân.
Đến khi
Vua bị người Pháp ép thoái vị năm 1907 hình ảnh một vị vua yêu nước, chống
Pháp, cắt tóc ngắn nhanh chóng lan tỏa xuống đến tầng lớp nông dân.
Tháng 3
năm 1908, bắt đầu từ tỉnh Quảng Nam, nông dân đầu cắt tóc ngắn lũ lượt kéo đến
các phủ huyện đòi giảm sưu giảm thuế.
Tất cả
đều hớt tóc ngắn đi thành đoàn, phong trào mở rộng vào Nam đến Bình Định, Phú
Yên và ra Bắc đến Nghệ An, Hà Tĩnh.
Pháp và
triều Nguyễn gọi cuộc biến động này là Giặc cắt tóc, ở Bình Định gọi là Giặc
đồng bào, sau nầy được đổi lại là cuộc Dân biến Trung kỳ.
Đây là
cuộc đấu tranh bất bạo động đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và đoàn biểu tình
lấy biểu tượng là Vua Thành Thái một vị vua yêu nước, theo tân học và chống
Pháp.
Như vậy
ngay từ đầu thế kỷ thứ 20, người Việt đã công khai thực hành phương pháp đấu
tranh bất bạo động với biểu tượng vua Thành Thái, có tổ chức, có chiến thuật,
có mục tiêu và có chiến lược một cách rất rõ ràng.
Cuộc đấu
tranh bất bạo động bị Pháp đàn áp dã man. Nhiều người tổ chức và tham dự bị
bắt, phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục bị dập tắt.
Các vị
Vua tiếp tục cải cách
Năm 1907
vua Duy Tân tiếp nối việc cải cách giáo dục bằng cách cho thành lập Bộ Học nhằm
cai quản việc học hành và thi cử.
Thượng
thư Bộ Học Cao Xuân Dục là một nhà giáo dục cổ vũ thực học, thực tài, bỏ đi
kiểu học từ chương, xa rời thực tế và chủ trương phát triển nền giáo dục
"không học vì bằng cấp" mà phải học lấy thực tài để ra giúp dân, giúp
nước.
Đáng
tiếc ông lại hết sức bài bác chữ Quốc ngữ, nhưng không phải vì thế mà chữ Quốc
ngữ bị đưa ra khỏi nền giáo dục.
Theo
Trần Gia Phụng từ năm 1909, chương trình thi Hương bắt buộc thí sinh phải làm
các đề thi luận văn bằng cả chữ Hán lẫn chữ Quốc ngữ.
Ngày 26
tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ (tức ngày 28/12/1918) vua Khải Định ra đạo dụ
chính thức bãi bỏ khoa cử kiểu Hán học.
Năm 1919
là năm cuối mở khoa thi Hương ở Huế, từ đó chữ Quốc ngữ thành chữ viết chính
thức của người Việt Nam.
Vai trò
của các ông giáo trường làng
Bên cạnh
các trường công do triều đình và người Pháp lập ra là một hệ thống trường tư do
các thầy đồ sau chuyển thành thầy giáo làng giảng dạy.
Mỗi làng
có khi lên đến vài ba trường, hoặc dạy ở nhà thầy, hoặc ở nhà người giàu có
nuôi thầy cho con ăn học và cho con các nhà lân cận trong làng theo học.
Thầy đồ
đa số là những người có học, có người đỗ tú tài, có người là quan hồi hưu mở
lớp dạy học.
Thầy đồ
hoàn toàn tự do không chịu sự giám sát của triều đình.
Mặc dầu
được tự do mở lớp giảng dạy giới thầy đồ vẫn giữ lòng trung với các vua nhà
Nguyễn và với sách Thánh hiền.
Các thầy
đồ quyết liệt chống lại các chính sách giáo dục của nhà cầm quyền Pháp với quan
niệm chữ Quốc ngữ là sản phẩm của ngoại bang và là công cụ của các nhà truyền
giáo.
Với họ,
chữ Hán giáo dục về luân lí, về lịch sử, là chữ Thánh hiền còn Quốc ngữ chỉ để
đọc báo, đọc Kinh Thánh, những sản phẩm của quân xâm lược, biết đọc chẳng ích
lợi gì.
Nhưng
khi sắc lệnh cho dạy Quốc ngữ của vua Thành Thái được ban ra thì chính các thầy
đồ đã thay đổi đã tự học chữ Quốc ngữ để truyền dạy lại cho học sinh.
Ba lớp
Đồng ấu học trước khi học sinh vào tiểu học đều do các thầy giáo trường làng
dạy hoàn toàn bằng chữ Quốc ngữ.
Nhờ thế
chữ Quốc ngữ trở thành phổ thông đại chúng.
Những bộ
sách giáo khoa như Sử ký địa dư giáo khoa thư, Luân lý giáo khoa thư, Quốc văn
giáo khoa thư, được học giả Trần Trọng Kim và các cộng sự biên soạn để dạy lớp
ấu học trường làng.
Bộ sách
giáo khoa 'Việt Nam Sử lược' được học giả Trần Trọng Kim soạn để dạy các lớp
cao hơn và đã hoàn toàn chỉ cho những người đã biết Quốc ngữ.
Lên lớp
nhì và lớp nhất ở trường chính phủ, mỗi tuần chỉ dạy chữ Quốc ngữ một giờ rưỡi
và bậc trung học chỉ dạy ba giờ.
Thời
gian còn lại học sinh được dạy bằng tiếng Pháp và hầu hết do người Pháp dạy.
Từ đó ta
thấy được căn bản tiếng Việt, sử địa, luân lý, văn hóa về Việt Nam của học sinh
hầu như đều thu nhận được từ các thầy giáo trường làng.
Vua Bảo
Đại là người Tây Học
Tốt
nghiệp trường Khoa học Chính trị Paris về nước, vua Bảo Đại bắt tay ngay vào
việc cải cách đất nước, mong từng bước khôi phục lại chủ quyền quốc gia.
Ngày
10/12 năm 1932, vua Bảo Đại cho công bố đạo dụ nước ta theo chế độ Quân chủ Lập
hiến, nhà vua sẽ trực tiếp điều khiển nội các và cho cải cách hành chính, giáo
dục và tư pháp.
Một nội
các mới đã được thành lập gồm những người trẻ theo tân học như Phạm Quỳnh, Ngô
Đình Diệm, Nguyễn Đệ…
Bộ Học
được đổi tên thành Bộ Giáo dục và giao cho Phạm Quỳnh từng là chủ nhiệm báo Nam
Phong một người luôn tha thiết với chữ Quốc ngữ điều hành.
Các cuộc
cải cách của vua Bảo Đại đều bị người Pháp cản trở, riêng cải cách về giáo dục
nhờ Phạm Quỳnh được người Pháp tin nên ít bị cản trở.
Chữ Quốc
ngữ được tăng giờ dạy ở các trường công.
Nhờ thế
sau khi Nhật đảo chánh Pháp, trao trả độc lập cho Việt Nam, chỉ trong vòng 5
tháng chính phủ Trần Trọng Kim đã thực hiện thành công cuộc cải cách lấy chữ
Quốc ngữ làm ngôn ngữ chính trong giáo dục.
Bộ
trưởng Giáo dục Hoàng Xuân Hãn có công lao lớn khi soạn cả sách toán và kỹ
thuật bằng tiếng Việt Quốc ngữ để dạy ngay trong niên học 1945-46 tại miền Bắc
và miền Trung.
Từ 1948
đến 1955, chính phủ Quốc gia Việt Nam tiếp tục lấy tiếng Việt làm ngôn ngữ
giảng dạy đến hết bậc trung học.
Bắt đầu
từ chuyển biến tư tưởng thời Thành Thái
Học
tiếng Pháp, theo tân học thoát khỏi tư tưởng Trung Hoa nên vua Thành Thái đã
hiểu rõ những khái niệm về tự do, dân chủ, quốc gia, dân tộc, quân chủ, cộng
hòa… hiểu từ sách Pháp không phải từ sách Trung Hoa.
Thay đổi
quan trọng nhất của nhà vua là về mặt tư tưởng, về ý thức đất nước không còn
của nhà vua nữa mà là của quốc gia của dân tộc.
Quốc gia
là một thực thể độc lập có chủ quyền thoát khỏi tư tưởng thuộc địa hay chư hầu
Trung Hoa.
Khái
niệm 'quốc gia' bắt đầu được sử dụng đối nghịch với 'thuộc địa', 'chư hầu'.
Mặc dù
không có quyền lực trong tay các vua triều Nguyễn đã thực hiện thành công cải
cách từ giáo dục, văn hóa, đến chính trị đưa đất nước thoát khỏi ảnh hưởng của
Trung Hoa.
Bài học
các vua triều Nguyễn đã thực hiện là nếu muốn cải cách giáo dục phải bắt đầu
bằng thay đổi tư tưởng cho chính mình.
Vì thế,
theo tôi, nhu cầu thiết yếu của đất nước ngày nay không phải là cải cách tủn
mủn về phát âm, ký tự Quốc ngữ mà phải vừa thoát khỏi ý thức hệ cộng sản, vừa
thoát Trung để khôi phục các nền tảng cơ bản cho Việt Nam.
Nguyễn
Quang Duy
Melbourne,
Úc Đại Lợi
4/9/2018
Tài Liệu
Tham Khảo
Liam
Kelley (2016), Cải Cách Giáo Dục Của Vua Thành Thái, Nguyễn Hồng Phúc lược
dịch.
Nguyễn
Giang, Những người giúp chữ Quốc ngữ 'làm nên', BBC World Service
Trần Gia
Phụng, Lịch sử chữ Quốc Ngữ.