Trân Văn
Quyết định của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Từ 12 tháng 10 năm 2018, cho
phép sử dụng Nhân dân tệ (Yuan) tại bảy tỉnh tiếp giáp với biên giới Trung Quốc
(Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hà Giang, Lai Châu, Lào Cai, Cao Bằng, Điện Biên) là
bằng chứng mới nhất, rõ nhất về việc Trung Quốc đã muốn thì phải chiều, bất kể
chuyện chiều theo ý muốn của Trung Quốc nguy hại như thế nào cho vận mệnh quốc
gia, tương lai dân tộc, độc lập – tự chủ về kinh tế – xã hội và xa hơn nữa là
chính trị…
Để cảm nhận một cách rõ ràng
“Trung Quốc đã muốn thì phải chiều” xin cùng xem lại sự kiện, ý kiến về việc có
nên cho phép sử dụng Yuan tại Việt Nam cách nay ba năm rưỡi…
***
Tháng 1 năm 2015, ngay sau khi
Hiệp hội Doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam và Ngân hàng Công Thương của
Trung Quốc (ICBC) đề nghị Việt Nam cho phép sử dụng Yuan (Nhân dân tệ của Trung
Quốc) trong các giao dịch tại Việt Nam, thông qua báo giới, mạng xã hội, doanh
giới, các chuyên gia kinh tế trong và ngoài Việt Nam đã đồng loạt phân tích –
cảnh báo hàng loạt hậu quả theo sau việc chấp nhận đề nghị này.
Lúc ấy, một trong những người
khuyến cáo chính phủ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam không nên gật đầu với
đề nghị cho phép sử dụng Yuan tại Việt Nam là ông Cao Sỹ Kiêm – cựu Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông Kiêm nhấn mạnh: Cho
dù mối quan hệ giao lưu hàng hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc rất rộng nhưng vì
sức cạnh tranh và khả năng quản lý thị trường của Việt Nam còn kém, việc từ
chối hay cho phép sử dụng Yuan ở Việt Nam sẽ dẫn tới hệ quả là kinh tế Việt Nam
lệ thuộc vào Trung Quốc ít hay nhiều.
Khi được đề nghị bình luận về
nhận định của ông Lê Đăng Doanh (một chuyên gia kinh tế – người cho rằng đề
nghị của Hiệp hội Doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam và ICBC, vi phạm chủ
quyền của Việt Nam), ông Kiêm cho rằng, chủ quyền của Việt Nam có bị xâm hại
hay không là do Việt Nam. Nếu sức cạnh tranh đã đủ lớn, hợp thức hóa việc sử
dụng Yuan bằng các quy định mà có thể kiểm soát chặt chẽ thì sẽ bảo vệ được chủ
quyền. Ngược lại, không giữ được độc lập về kinh tế, độc lập trong việc quản lý
chính sách thì chủ quyền sẽ bị xâm hại (1).
Không chỉ có ông Doanh, ông Kiêm,
ông Nguyễn Minh Phong – một chuyên gia kinh tế làm việc tại Viện Nghiên cứu
Phát triển Kinh tế – Xã hội Hà Nội, cũng tin rằng, chấp nhận sử dụng Yuan để
thanh toán các giao dịch thương mại tại Việt Nam sẽ đẩy kinh tế Việt Nam đến
chỗ đối mặt với hai nguy cơ: Gia tăng rủi ro đối với doanh nghiệp Việt Nam vì
Yuan chưa phải là ngoại tệ được tự do chuyển đổi trên thị trường quốc tế. Mặt
khác, nhập siêu từ Trung Quốc rất lớn, ở vị thế yếu hơn về thương mại, doanh
giới Việt Nam sẽ phải vay Yuan từ Trung Quốc, Việt Nam sẽ không chỉ lệ thuộc
Trung Quốc về hàng hóa mà còn lệ thuộc cả về tài chính.
Ông Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng
Viện Nghiên cứu Chính sách và Kinh tế (VEPR), khẳng định nguyên tắc, thanh toán
cho các giao dịch trên lãnh thổ của quốc gia nào phải sử dụng tiền tệ của quốc
gia đó. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam từng làm đủ cách để loại bỏ tình trạng vàng
hóa, đô la hóa, tại sao lại có thể chấp nhận cho sử dụng Yuan trên lãnh thổ
Việt Nam (?) (2). Tương tự, bà Phạm Chi Lan – một chuyên gia kinh tế khác – ví
von, nội tệ cũng như quốc kỳ, cho phép sử dụng Yuan tại Việt Nam cũng như cho
phép treo cờ Trung Quốc trên lãnh thổ Việt Nam (3).
Bên ngoài Việt Nam, sau khi phân tích
lợi – hại nếu chấp nhận đề nghị cho phép dùng Yuan thanh toán trực tiếp trên
lãnh thổ Việt Nam mà phần bất lợi Việt Nam gánh hết, ông Vũ Quang Việt – một
chuyên gia kinh tế từng là Vụ trưởng Vụ Tài khoản Quốc gia thuộc Cục Thống kê
của Liên Hiệp Quốc – nhận định, không quốc gia nào muốn có nền kinh tế độc lập,
lại xóa bỏ khả năng điều hành chính sách tiền tệ của mình bằng cách cho phép sử
dụng rộng rãi vàng hay ngoại tệ trong thanh toán nội địa, dù nó là đồng Yuan
hay Mỹ kim. Sử dụng ngoại tệ một cách rộng rãi chứng tỏ rằng người dân không
còn tin nội tệ và muốn giữ nó, đưa đến việc nội tệ mất giá.
Ông Việt đưa ra hàng loạt dẫn
chứng từ thực tế (chẳng hạn cho phép mỗi người dân ở biên giới, mỗi ngày được
mang lượng hàng hóa Trung Quốc trị giá hai triệu đồng vào Việt Nam), cáo buộc
chính quyền Việt Nam đang tự cho phép mình mất chủ quyền về tiền tệ ở vùng biên
giới, biến các tỉnh này thành vùng đầu tầu giúp Trung Quốc tấn công, xâm nhập
vào thị trường Việt Nam.
Ông Việt nêu thắc mắc, phải chăng
những chính sách kiểu đó là lý do khiến Việt Nam không kiểm soát được hoạt động
nhập cảng từ Trung Quốc cũng như chất lượng hàng nhập cảng từ Trung Quốc? Tiếp
tục mở rộng theo đề nghị của phía Trung Quốc là mở rộng khả năng Yuan đuổi đồng
nội tệ ra khỏi thị trường Việt Nam và sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc điều
hành nền kinh tế Việt Nam và chính trị ở Việt Nam.
Ông Việt khuyên chính quyền Việt
Nam nên xem lại chính sách tiền tệ và thương mại với Trung Quốc ở khu vực biên
giới, thực hiện mậu dịch qua ngân hàng bằng đồng tiền chuyển đổi được trên thị
trường thế giới, còn nếu không thì dựa trên việc thành lập qua ngân hàng một
quĩ chuyển đổi giữa đồng Việt Nam và Yuan, bên Việt Nam có thể mua hàng bằng
đồng Việt và bên Trung Quốc có thể mua hàng bằng Yuan, phần còn lại được giải
quyết bằng đồng chuyển đổi, đó mới là hợp tác nhằm có biện pháp phù hợp cân
bằng thương mại giữa hai quốc gia (4).
Ngoài chuyện giới thiệu ý kiến
của các chuyên gia kinh tế, hồi tháng 1 năm 2015, báo giới Việt Nam còn dẫn ý
kiến của các doanh nghiệp Việt Nam đang có quan hệ thương mại với doanh nghiệp
Trung Quốc để chứng minh, chính họ cũng không mặn mà với đề nghị của Hiệp hội
Doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam và ICBC. Ông Nguyễn Lâm Viên, Tổng Giám
đốc VINAMIT – một doanh nghiệp có nhiều đối tác thương mại ở Trung Quốc, cho
biết, hầu hết hợp đồng giữa hai bên đều chọn ngoại tệ thứ ba là Mỹ kim làm
phương tiện thanh toán.
Nếu chuyển sang thanh toán bằng
Yuan thì thiệt thòi của doanh nghiệp Việt Nam sẽ rất lớn vì phải trả thêm 0,5%
phí chuyển đổi từ Mỹ kim sang Yuan. Ông Viên lưu ý, năm 2014, nhập siêu từ
Trung Quốc khoảng 29 tỉ Mỹ kim, cứ tính 0.5% khoản này sẽ thấy. Đó cũng là điều
mà Giám đốc một ngân hàng thương mại chuyên mở L/C cho các doanh nghiệp Việt
Nam có giao thương với Trung Quốc bảo với tờ Thanh Niên rằng, bởi các giao dịch
với Trung Quốc thường quy đổi thành Mỹ kim, giao dịch bằng Yuan chiếm tỉ lệ rất
nhỏ so với các đồng tiền khác nên chắc chắn không doanh nghiệp Việt Nam nào mặn
mà với ý tưởng dùng Yuan thanh toán thương mại…
Tháng 1 năm 2015, ông Nguyễn Quốc
Hiệp, Chủ tịch Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Việt Nam, gọi đề nghị của Hiệp hội
Doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam và Ngân hàng Công Thương của Trung Quốc
(ICBC) là một đề nghị kỳ quặc, phi lý, thiếu khả thi vì Yuan là loại tiền tệ mà
Trung Quốc tìm mọi cách vẫn chưa thể quốc tế hóa và tất nhiên không thể chấp
nhận vì gật đầu là chấp nhận bị khống chế, lệ thuộc (6)…
***
Tháng 1 năm 2015, ông Phạm Sỹ
Thành – Giám đốc Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc (VCES) thuộc VEPR từng
tỏ ra rất lạc quan trước đề nghị của Hiệp hội Doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt
Nam và ICBC bởi đó chỉ là một đề nghị và đâu phải đề nghị nào cũng “hợp lý”,
“có hiểu biết”. Chưa kể về mặt kỹ thuật, Việt Nam và Trung Quốc chưa có Hiệp
định Hoán đổi tiền tệ (Swap Agreement), giao dịch trực tiếp của tư nhân trong
thương mại tại biên giới là phạm pháp, chắc chắn Bộ Công Thương sẽ lắc đầu,
Ngân hàng Nhà nước không thể đồng ý.
Cứ theo nhận định của ông Thành
thì đề nghị đó không thể chấp nhận vì gật đầu sẽ giúp “hệ thống ngân hàng Trung
Quốc bùng nổ tại Việt Nam”. Nếu tỷ trọng vốn của Trung Quốc trong nền kinh tế
Việt Nam lớn hơn sẽ “tác động tiêu cực đến an ninh tài chính, an ninh tiền tệ
của Việt Nam”. Chưa kể với tỷ trọng thương mại chiếm 10% xuất khẩu và 25% nhập
khẩu, rổ dự trữ thanh toán sẽ phải giảm tỷ trọng Mỹ kim và thêm vào đó tỷ trọng
Yuan – làm phức tạp hơn cho quản lý trong bối cảnh trình độ quản lý tiền tệ của
Việt Nam vẫn còn chưa có nhiều kinh nghiệm. Ngoài ra sẽ không bao giờ dẹp được
giao dịch trực tiếp qua biên mậu, và theo đó, những vấn đề như nhập siêu, quản
lý chất lượng hàng hóa sẽ không thể cải thiện được…
Ông Thành quả là chủ quan, mà
chẳng phải chỉ có ông Thành… Ba năm đủ để phân tích, khuyến cáo, cảnh báo của
các chuyên gia kinh tế trong và ngoài Việt Nam, góp ý của doanh giới hóa… bùn.
Tháng 1 năm nay, chính phủ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành Nghị
định 14/2018/NĐ-CP “Quy định chi tiết về hoạt động thương mại biên giới”. Đúng
tám tháng sau, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư 19/2018/TT-NHNN “Hướng dẫn
về Quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam – Trung
Quốc”, theo đó, sử dụng Yuan để thanh toán trực tiếp cho các giao dịch thương
mại trên lãnh thổ Việt Nam và ủy thác thanh toán qua hệ thống ngân hàng sẽ có
hiệu lực vào tháng tới.
Hai tuần trước Quốc khánh lần thứ
73 của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hệ thống chính trị, hệ thống công
quyền Việt Nam công khai báo động về khả năng biểu tình vào dịp 2 tháng 9. Song
song với khuyến cáo được phát cho từng gia đình, lực lượng vũ trang rùng rùng
chuyển động – nhanh chóng bày ra quyết tâm đè bẹp, trừng trị thẳng tay tất cả
các hành động phản kháng ôn hòa. Đây có lẽ là lần đầu tiên kể từ khi quốc gia
thống nhất, Quốc khánh của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam trôi qua trong
tình trạng các lực lượng vũ trang” được đặt vào tình huống “sẵn sàng chiến đấu”
trên toàn lãnh thổ.
Có một điểm mà tới giờ này, những
người quan sát các diễn biến thời sự tại Việt Nam vẫn chưa tìm được câu trả lời
cho thắc mắc: Hệ thống công quyền Việt Nam dựa vào đâu để dự đoán sẽ có biểu
tình trên diện rộng vào dịp Quốc khánh? Nếu xem mạng xã hội là một thứ phong vũ
biểu và so diễn biến trên mạng xã hội trong nửa đầu tháng 6 năm nay (thời điểm
hệ thống chính trị Việt Nam thúc ép Quốc hội Việt Nam thông qua luật đặc khu)
với nửa cuối tháng 8 vừa qua thì rõ ràng những dấu hiệu cho thấy khả năng bùng
phát biểu tình, bạo động trên diện rộng vào dịp Quốc khánh rất mờ nhạt. Liệu
chuỗi hành động báo động – quảng bá quyết tâm – biểu diễn năng lực trấn áp của
hệ thống công quyền Việt Nam có liên quan đến Thông tư 19/2018/TT-NHNN không,
khi “răn đe” vẫn được xem như một giải pháp hữu hiệu để duy trì quyền lãnh đạo
toàn diện, tuyệt đối của Đảng CSVN?
Cách nay ba năm rưỡi, đề nghị của
Hiệp hội Doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam và ICBC – cho phép sử dụng Yuan
trong các giao dịch thương mại trên lãnh thổ Việt Nam – từng làm dư luận Việt
Nam dậy sóng. Giờ, khi đề nghị đó trở thành hiện thực, tại sao phản ứng của báo
giới, của các chuyên gia kinh tế, doanh nhân, doanh giới Việt Nam lại khẽ
khàng, nhẹ nhàng như đó là chuyện tất nhiên của thực trạng Trung Quốc đã muốn
thì Việt Nam phải chiều?
Chú thích