Tác giả &Tác phẩm
Thiên Tùng
Dường như những người viết văn thích tự do, phóng khoáng. Vì
thích phóng khoáng, tự do nên tôi tham gia làng văn, thích làm quen với những
nhà văn. Đó cũng là thói thường: “ngưu
tầm ngưu, mã tầm mã”.
Ở Nam bộ, ngoài Hồ
Biểu Chánh trước đây, sau nầy có 3 nhà văn tương đối nổi tiếng là Nguyễn Quang
Sáng, Sơn Nam và Trang Thế Hy. Cả 3 ông nầy tôi đều quen thân, nhất là Trang
Thế Hy. Cả 3 đều qua đời, ông Hy là người “đi” sau cuối (8/12/2015). Không phải
“thấy sang bắt quàng làm họ” đâu, tôi
kết thân với các ông nầy cốt để học hỏi cách viết văn và trao dồi phẩm hạnh.
Qua cuộc sống đời
thường và qua tác phẩm văn học, tôi đồng tình với một số người nhận xét tổng
quát về 3 nhà văn tên tuổi ở Nam bộ nầy: Sơn Nam dễ tính, chơn chất, mộc mạc;
Nguyễn Quang Sáng phóng khoáng, giàu tưởng tượng; Trang Thế Hy khó tính, chơn
chất, sâu cay. Về văn phong: Sơn Nam dùng từ ngữ mộc mạc có nét giống Hồ Biểu
Chánh; Nguyễn Quang Sáng phóng khoáng, tuôn chảy; Trang Thế Hy tu từ, chắt lộc
từng chữ, kiệm lời, trong mỗi tác phẩm ẩn chứa một thông điệp mới về cuộc sống.
“Văn kỳ thinh bất kiến kỳ hình”, tuy cùng sinh ra ở Bến Tre, trong chiến tranh
“loạn lạc”, tôi chỉ biết Trang Thế Hy qua những văn phẩm của ông.
Đầu thập niên 90,
trong cuộc thi sáng tác truyện ngắn do Hội Văn Nghệ tỉnh Tiền Giang phát động,
ông Hy được mời làm chủ khảo, tôi ứng thí truyện “Hỏa thiêu”. Cuộc thi nầy, truyện “Hỏa thiêu” của tôi đạt giải
nhất. Đây là lần đầu tiên tôi và ông Hy biết mặt nhau.
Tuổi tôi và ông Hy (Tư
Sâm) chênh lệch nhau hơn con giáp, gọi nhau anh và em (anh Tư, chú Tùng). Chúng
tôi chơi thân nhau chẳng qua “Ngưu tìm
ngưu, mã tìm mã”, cùng chán ngán “sự đời” từ quan về ở ẩn. Tôi ẩn ở TP Mỹ
Tho, còn anh Hy ẩn ở quê nhà xã Hữu Định – cạnh nghĩa trang liệt sĩ tỉnh Bến
Tre. Chúng tôi ở cách nhau chưa đầy 10 km, chỉ qua bắc Rạch Miễu (giờ là cầu
Rạch Miễu) coi như tới. Tư Sâm ngày một xuống sức, di chuyển khó khăn, 25 năm
qua từ khi quen biết nhau, tôi đến với anh là chính.
Trước khi “ba điều bốn
chuyện” về Trang thế Hy, tôi nói về bức ảnh ông ngồi võng chỉ tay mà trang
Bauxite dùng minh họa: đôi điều vĩnh biệt và chia buồn với gia đình nhà văn
Trang thế Hy.
Vĩnh biệt nhà văn
Trang Thế Hy
Trang Thế Hy - Ảnh từ trang Bauxite Việt Nam |
Bức ảnh nầy ai đó
chụp đã lâu rồi, lần đến thăm ông, tôi lật album để trên bàn xem, hỏi:
- Ngồi võng chỉ tay thế này là ý gì?
- “Đi chỗ khác chơi” – Ông vừa cười vừa đáp.
- Vậy anh đuổi cả tôi? – tôi vặn hỏi.
- Chú mầy đến biết bao lần anh đâu có chỉ tay
?! – ông thanh minh. Thế rồi, vừa pha trà, miệng ông lẩm bẩm: Chỉ là ảnh, chụp
cho vui vậy thôi, theo phép lịch sự, ngay cả nhà thơ Bảo Định Giang đến đây anh
cũng đâu có chỉ tay.
Vậy, ảnh ông Hy chỉ
tay là để nói với người chớ không phải tự nói với mình như có một số người lầm
hiểu.
Nhà văn Trang Thế Hy
qua đời, ngoài tiếc thương, tôi còn mất một chỗ chơi thanh vắng, lý thú. Nơi
tiếp khách của ông chỉ là túp lều mái cong dạng mui ghe, cạnh nhà, núp dưới
bóng dừa, đủ để cái bàn nước và cái võng giăng cạnh. Cuộc sống những năm tháng
“về chiều” của ông Hy đơn giản với điệp khúc: ngủ vào trong, thức ra đây, khỏe
ngồi, mệt nằm võng, khi chết chôn cạnh nhà và hết.
Đầu năm 1990, tôi đưa
2 tập bản thảo truyện ngắn + ký được Nhà xuất bản Văn nghệ TP Hồ Chí Minh chấp
nhận xuất bản cho ông Hy đọc và giúp viết lời bạt. Khi đọc và viết xong lời
bạt, ông gọi tôi đến, nhận xét tổng quát về 2 tập truyện nầy: “Phong phú về đề tài; cả kho từ vựng quí
giá; thể hiện rõ nỗi bất bình cao quí; giàu nguyên liệu nhưng yếu về khâu chế
biến…” (trích trong lời bạt).
Đọc tác phẩm của ông,
tôi có cảm nhận ông Hy viết bằng bút thép chớ không phải vút lông. Ngòi viết
của ông “đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”.
Nói theo thuật ngữ bóng đá, ông Hy là cầu thủ điêu luyện trong dẫn bóng và ghi
bàn. Chẳng hạn:
1/ Trong truyện “Xử
tội Hà bá”, ông viết: << Mẹ tôi sai tôi ra tiệm mua nước
mắm. Ra tới ngả ba, tôi thấy người ta bu đông nghẹt xem nhóm Sơn đông mãi võ
đang làm trò xảo thuật bán thuốc đủ loại. Họ câu khách bằng cách nhắc đi nhắc
lại pha cụp liệt cuối cùng là “Xử tội Hà Bá”. Con Hà Bá họ trùm kín trong chăn.
Do tính hiếu kỳ, tôi cố nán lại chờ xem mặt mũi con Hà Bá ra sao. Chờ mãi, hết
keo nầy gầy keo khác, mà không đến lượt xử tội Hà Bá.
Thấy con đi lâu không về, mẹ tôi đi
tìm. Thấy tôi nhí nhố trong đám đông chờ xem xử tội Hà Bá, chẳng những không la
rầy, bà còn khích lệ tôi nán lại xem tiết mục rùng rợn nầy.
Đến mục cuối cùng xử tội Hà Bá, một
người làm trò ảo thuật giả bộ vấp té trầy chân, nhăn mày nhíu mặt, người bán
thuốc cầm gói thuốc dán giơ cao, nói to: “Có ngay, thần dược có một không hai,
trầy đâu dán đó khỏi ngay tức thì”.
Mẹ tôi nói:
- Thôi đi con, ta ra tiệm mua nước mắm
về ăn cơm, đã đứng bóng rồi, họ gạt mình để bán thuốc chớ không có
xử tội Hà Bá đâu !
- Hà Bá
có thật không mẹ ? – vừa đi tôi vừa hỏi.
- Sao
không, cái bọn nói một đường làm một nẻo là lũ Hà Bá đấy>>.
2/ Trong truyện “Tiếng
khóc, tiếng hát”, ông viết: << Ông đạo diễn Hải cho người phụ nữ khoảng 30 tuổi bán giải
khát trước nhà mình. Liên cư với nhà Hải là nhà của gã ma cô, ông nầy sở hữu
một cô gái có ngoại hình ăn khách nhưng lại câm và điếc. Hàng ngày người bán
giải khát phải chứng kiến điệp khúc: bữa nào cô gái tiếp khách được tiền, gã ma
cô vui, cô gái cười và ca hát ú ớ theo nhạc điệu một bài hát nhất định nào đó;
bữa nào ế khách thì gã ma cô cằn nhằn, đánh đập, cô gái khóc nức nở.
Một hôm nghe cô gái khóc tức tưởi,
người bán giải khát hỏi thăm dò ông Hải:
Anh nghe xem, cô gái ấy khóc hay hát?
- Làm
sao tôi có thể phân biệt được ! – Hải nói.
- Lạ thật, không phân biệt được “tiếng
khóc, tiếng hát” mà cũng làm đạo diễn!...>>.
3/ Trong truyện “Người
tặng đờn”, ông viết: << Lúc
còn ở Sài Gòn, tôi đến thăm thầy đờn (nhạc sĩ dạy đờn) nổi tiếng Tư Chơi. Hai
anh em đang nhâm nhi rượu đàm đạo, bỗng có chàng trung niên, vai mang cây đờn
kìm (đờn nguyệt), tay xách cái túi vào cửa ngã đầu chào chúng tôi. Sau bước
chào hỏi, chủ khách đề huề, anh Tư Chơi mở lời:
- Vốn
chưa quen, cháu đến chú có việc chi?
- Chẳng
những cháu nghe danh mà còn nghe cả tiếng đờn của Bác Tư trong dĩa hát. Vì sự
ngưỡng mộ, cháu tìm đến tặng Bác Tư cây đàn kìm được nghệ nhân khảm ốc và 2
chai rượu.
- Chỉ
thế thôi hay có điều kiện gì? – Tư Chơi nghi ngờ, hỏi vặn.
- “Văn
kỳ thinh bất kiến kỳ hình”. Nay đã kỳ hình, cháu xin Bác Tư vừa thử cây đờn
coi có ưng ý không, vừa đờn một vài bản cho cháu nghe cho thỏa lòng ngưỡng
mộ – chỉ thế thôi.
- Điều
đó rất dễ khi bác còn đương thời, nhưng nay rất khó vì bác đã hết thời!
- Thời
vận gì, anh đàn cho cháu nó nghe một vài bản để đáp công nó lặn lội tới đây -
tôi nói.
- Xem
nè, tay run thế nầy mà đờn cái nỗi gì nữa?!. Chú không chịu đờn là không muốn
làm cho cháu thất vọng, hãy giữ những gì vốn có. Bác biết thân phận mình nên đã
“gác kiếm” từ lâu. Làm người phải biết “hạ cánh” đúng lúc, dây dưa mãi chỉ
làm trò cười cho thiên hạ? >>.
..v..v..
Ngoài mỗi tác phẩm ẩn
chứa một thông điệp mới về cuộc sống, nhà văn chi tiết Trang Thế Hy còn “chích”
rất đau như vừa kể, khiến cho “bịnh nhân” phải hoảng sợ. -/-
22/12/2015
Thiện
tùng ( viết sau khi dự tang lễ nhà văn
Trang Thế Hy).
---------
Văn Tuyển – Hiệp hội văn chương toàn
cầu
Posted
on Tháng Mười Hai 23, 2015 by VietnamDaily.News in Tác giả & Tác phẩm, Thiện Tùng // 0 Comments