Trần Trung Đạo
Thỉnh thoảng có
một quan điểm cho rằng Việt Nam không cần dân chủ ít nhất trong vài chục năm
nữa mà chỉ cần một lãnh đạo yêu nước, sáng suốt, cứng rắn có khả năng đáp ứng
với nhu cầu đất nước và biến động quốc tế để tạo sự ổn định và phát triển.
Thoạt nghe, đó là
một quan điểm tốt vì ổn định là cần thiết mà ổn định để phát triển đất nước lại
càng cần thiết hơn. Việt Nam thật may mắn nếu có một lãnh đạo như thế để đưa
đất nước tiến lên trên con đường phát triển và hiện đại hóa.
Tuy nhiên, điều
kiện chính trị hiện nay cho thấy không có và không thể có một người như vậy.
Việt Nam đang bị cai trị bởi một đảng độc tài toàn trị, không có một kẽ hở nào
dành cho sự đóng góp đi ngược với đường lối đảng.
Tập Cận Bình cũng
lý luận và chủ trương như vậy nhưng cùng lúc với phát triển kinh tế, tức cho
người dân món ăn vật chất, họ Tập xóa bỏ hẳn các khao khát tinh thần mà sáu tỉ
người khác ngoài lục địa Trung Quốc đang được hưởng. Con người khác con vật ở
chỗ bản năng và lý trí, do đó, chủ trương của họ Tập chỉ có hiệu quả tạm thời.
Biến cố Thiên An Môn bùng nổ sau mười năm Trung Cộng phát triển kinh tế vượt
bực.
Trong lịch sử nhân
loại có một số nhà lãnh đạo cứng rắn với mục đích tạo sự ổn định của đất nước
họ trong giai đoạn rất tế nhị và chuyển tiếp như từ đế quốc sang độc lập, từ
phong kiến sang cộng hòa.
Những người đó có
khi trả giá rất cao cho các chính sách của họ. Nhiều người bị giết qua các cuộc
đảo chính lật đổ hay ám sát như trường hợp Phác Chính Hy của Nam Hàn, Anwar
Sadat của Ai Cập nhưng cũng có một số ít thành công như Sir Seretse Khama của
Botswana, Lý Quang Diệu của Singapore hay Mustafa Kemal Atatürk của Thổ Nhĩ Kỳ.
Điểm khác căn bản
đầu tiên là mục đích. Các cá nhân độc tài thường chỉ dựa vào một số chính sách
ngắn hạn có tính cách mở đường thôi chứ không dựa vào một hệ thống để thực hiện
mục đích muôn năm cai trị bất chấp đà phát triển của văn minh nhân loại.
Mục đích của TT
Phác Chính Hy là “phát triển trước, thống nhất sau”, mục đích của TT Mustafa
Kemal Atatürk là “ổn định để hội nhập vào trào lưu dân chủ.” Rõ ràng, mục đích
của hai vị này vẫn là hướng tới dân chủ tam quyền phân lập nhưng cần một thời
gian và không gian để chuẩn bị hành trang sánh vai cùng nhân loại.
Các đảng độc tài toàn
trị như đảng CS với các hạn chế do cơ cấu tạo ra không có và cũng không thể có
một người trong đảng xứng đáng đứng ngang hàng với những nhà cải cách của Nam
Hàn hay Thổ về cả lý thuyết lẫn thực tế.
Sau 1990, Trần
Xuân Bách thấy được hướng đi của thế giới nhưng tiếng nói lẻ loi của ông bị
cuồng phong CS cuốn đi và bản thân ông bị bộ máy nghiền nát nhanh chóng. Boris
Yeltsin chỉ tự do hoạt động khi ông ta rời khỏi đảng CS.
Đảng độc tài CSVN
không phải là cá nhân mà là bộ máy, tức cơ chế chính trị. Cơ chế chính trị CSVN
với mục tiêu muôn năm cai trị đã được xác định đi và khẳng định lại nhiều lần
từ 1930 cho tới nay.
Mỗi khi điều kiện
chính trị thế giới thay đổi và tạo nên áp lực, bộ máy chạy khác nhịp, chậm lại
một chút nhưng không bao giờ ngưng chạy.
Cơ chế chính trị
CS giống như một động cơ có đủ các bộ phận và chức năng để bảo đảm sự hoạt động
của bộ máy. Cứ thế, chỉ cần đủ xăng, đủ dầu, đủ nhớt là bộ máy chạy. Bộ máy sẽ
chạy cho tới khi có một lực cản buộc nó ngừng chạy vì gây ra quá nhiều tai nạn,
hay chạy cho tới khi hết xăng dầu. Trường hợp hết xăng dầu rất ít vì lúc nào
cũng có một bộ phận nô dịch tình nguyện làm xăng dầu, làm phên dậu.
Các thế hệ CS cai
trị giống như những người được thừa hưởng đất hương hỏa của ông bà để lại,
ngoại trừ làm hề và làm biếng, họ không làm gì cả, chỉ sống và thu hoạch hoa
màu.
Một trong những bộ
phận chính giúp bộ máy chạy từ đời này qua đời nọ là hệ thống lý luận và tuyên
truyền. Đây là thanh gươm giết người không gớm tay và là bộ phận nguy hiểm
nhất.
Sau 1990, ở Châu
Âu, nhân loại đã bừng tỉnh, các nhà sử học, các nhà thống kê có cơ hội đánh giá
những thiệt hại của nền văn minh con người do ý thức hệ Cộng Sản gây ra. Các sử
gia cũng chứng minh rằng chuyện giết người không gớm tay của các lãnh tụ Cộng
Sản chẳng phải là tình cờ hay ngẫu nhiên, cũng chẳng phải phát xuất từ bản chất
hung ác riêng của họ mà là một đặc điểm mang tính triết học trong hệ tư tưởng
Cộng Sản và thực tế chính trị tại các quốc gia Cộng Sản. Lý luận CS giúp cho họ
ăn ngon và ngủ yên mà không bị cảm thấy lương tâm cắn rứt sau khi làm công việc
giết người tập thể.
Trong thời gian
qua, có người kêu gọi đảng CSVN đổi lại danh xưng cũ là đảng Lao động Việt Nam
hay đặt một tên nào khác cho dễ nghe. Dù biết đó chỉ là bình mới rượu cũ nhưng
đảng cũng không chấp nhận.
“Cộng sản” không
chỉ là danh từ mà còn là động từ và tĩnh từ. Nó hàm chứa các đặc điểm của một
cơ chế tàn bạo về hình thức lẫn nội dung, về lý luận lẫn thực tế. Giới cai trị
biết rằng chỉ hai chữ “Cộng sản” thôi đủ làm người dân Việt Nam mất ăn mất ngủ.
Bản thân của hai
chữ “Cộng sản” là một vũ khí kinh người, một mối lo sợ ám ảnh thường trực trong
tâm trí người dân Việt. Do đó, việc duy trì tên đảng CSVN là cách để cảnh cáo
nhân dân Việt Nam rằng nhà tù vẫn còn đó, súng đạn cũng còn đó, các biện pháp
trừng phạt không thương xót, những cách trả thù ghê rợn vẫn còn đó.
Mặc dù các lãnh
đạo Cộng Sản thuộc thế hệ 1954 còn đang cầm quyền, con cái và tay chân thân
tín, trung kiên đã được đào tạo và cắt cử vào các chức vụ quan trọng trong bộ
máy cai trị.
Đặc tính kế thừa
trong chế độ Cộng Sản là một tiến trình chọn lọc hết sức tinh vi và cẩn trọng.
Họ có thể tranh chấp nhau, phê bình nhau, hạ bệ và thậm chí thanh trừng nhau
nhưng giữa họ vẫn có một mẫu số chung căn bản đã đồng thuận từ khi đưa tay
tuyên thệ và một quyền lực phải được bảo vệ bằng mọi giá, đó là vai trò lãnh
đạo tuyệt đối của đảng Cộng Sản Việt Nam.
Vai trò của đảng
ngày nay không chỉ đại diện cho ý thức hệ, cho quan điểm chính trị nhưng cụ thể
hơn, đại diện sự giàu sang phú quý mà họ đang hưởng thụ, cho nhà cao cửa rộng
mà họ đang sở hữu.
Phân tích như vậy
để cùng thấy rằng, đất nước đến nay vẫn chưa có một hướng đi đích thực, hướng
đi có thể dẫn đến một Việt Nam như cường quốc kinh tế nổi bật vùng Đông Nam Á,
một xã hội tôn trọng các quyền tự do căn bản của con người và một nền văn hóa tươi
đẹp nhờ vào các giá trị đặc thù của dân tộc đồng thời phát triển hài hòa vào
dòng văn minh nhân loại.
Nói một cách khác,
ngày nào cơ chế chính trị độc đảng, độc tài, độc quyền như hiện nay tại Việt
Nam chưa được thay đổi ngày đó sẽ không có một hướng đi đích thực nào dành cho
dân tộc Việt Nam.
Việt Nam sẽ không
bao giờ trở thành hưng thịnh như Nam Hàn, Đài Loan, Mã Lai hay tương đối ổn
định như Thái Lan, Philippine nếu nhân dân Việt Nam không đập vỡ được chiếc vỏ
sắt đang siết chặt họ.
Đừng ngồi chờ hay
hy vọng đảng CS sẽ tự thay đổi. Trong lịch sử phong trào CS quốc tế, chưa có
một đảng CS nào tự chuyển hóa từ độc tài toàn trị sang tam quyền phân lập để
phục vụ cho quyền lợi của nhân dân.
Nhìn lại tám nước
CS Đông Âu, mười lăm nước “cộng hòa xã hội chủ nghĩa” thuộc Liên Sô, trong đó
có ba nước vùng Baltic, CS Ethiopia ở Phi Châu, CS Mông Cổ ở Á Châu, tất cả đều
sụp đổ do cách mạng dân chủ. Cách mạng có thể ôn hòa như tại Hungary, Tiệp Khắc
hay đẫm máu như tại Romania, tùy thuộc vào áp lực của nhân dân hay mức độ ngoan
cố của giới cầm quyền, nhưng đều là cách mạng.
Mikhail Gorbachev
được xem như là người đã mang tự do dân chủ đến cho các nước “cộng hòa xã hội
chủ nghĩa” thuộc Liên Sô, nhưng đừng quên ông đã áp dụng nhiều cách vẫn không
cứu được đảng. Chiều ngày 25 tháng 12, 1991, Mikhail Gorbachev từ chức chủ tịch
Liên Sô giữa sự thờ ơ của đa số dân Nga và các nước trong khối Liên Sô. Bởi vì
cách mạng dân chủ đã diễn ra khi Boris Yeltsin đứng trên xe tăng trước Quốc Hội
Nga ngày 19 tháng 8, 1991. Lịch sử Nga đã sang trang từ hôm đó chứ không phải
đợi tới ngày 25 tháng 12, 1991 khi Gorbachev từ chức.
Bắt đầu từ đâu?
Trước hết phải từ
người đặt câu hỏi. Chỉ có những người yêu nước bằng một tình yêu trong sáng,
một quan điểm chính trị dứt khoát mới làm được công việc tháo gỡ cơ chế CS và
đưa đất nước đi lên.
Thời đại nào và
quốc gia nào cũng cần có một tập thể những người vượt qua được chính mình và
thấy được nhu cầu đích thực của đất nước. Quần chúng đông đảo sẽ tự động đứng
dậy đi theo.
Đừng nói chi là
Việt Nam, nước Đức sản sinh ra nhiều thiên tài khoa học và văn hóa, nhưng đại
đa số dân Đức thời đệ nhị thế chiến cũng đã bị bộ máy tuyên truyền Đức Quốc Xã
vận dụng tâm lý dễ dàng.
Sử gia Richard
Overy trong tác phẩm “The Dictators: Hitler’s Germany and Stalin’s Russia” đối
chiếu tâm lý người dân Đức thời Hitler và Liên Sô thời Stalin, cho thấy Hilter
được dân chúng Đức ủng hộ cao nhất khi Đức chiếm Paris và Stalin được dân chúng
Liên Sô ca ngợi nhiều nhất trong thời kỳ Khủng Bố Đỏ (Red Terror) 1936-1937. Cả
hai hành động đều là tai họa của nhân loại nhưng không hẳn phản ảnh đúng trong
nhận thức của người dân thường, những người dễ bị lung lạc và vận dụng.
Tại Việt Nam hôm
nay, nếu ai đó lên các thôn làng vùng núi cao, xa xôi hẻo lánh mời người dân
địa phương một bữa cơm thịnh soạn với cao lương mỹ vị từ nhiều nơi trên thế
giới nhưng trong đó lại có một đĩa cá rô chiên dầm mắm tỏi ớt, chắc chắn họ sẽ
ăn hết con cá rô chiên “ổn định” ngay và không dám đụng tới cao lương mỹ vị
“dân chủ” xa lạ kia.
Gạt thành phần
phên dậu qua một bên, trách nhiệm của một người Việt ý thức có khả năng hướng
dẫn dư luận, do đó, là đừng để chính mình rơi vào chiếc bẫy “ổn định” của đảng
mà phải vạch ra cho người dân biết để họ từ bỏ thói quen vâng lời đảng, vươn
qua cánh cửa hẹp của cuộc đời họ để tiếp xúc với những cái hay, cái đẹp, cái
mới, vươn lên cùng nhân loại vì tương lai của họ và con cháu họ.
Con đường đạt đến
dân chủ cho Việt Nam không ai nói sẽ dễ dàng hay sẽ đến nay mai mà có thể sẽ
khó khăn và còn dài. Nhưng khó hay dài đều bắt đầu và tùy thuộc vào nỗ lực của
mỗi người Việt Nam. Phương pháp của một người đang hoạt động trong vòng cơ chế
sẽ khác với phương pháp của một người đấu tranh bên ngoài cơ chế, nhưng nếu họ
có cùng mơ ước về một Việt Nam tự do dân chủ rồi một ngày họ sẽ gặp nhau. Hãy
nỗ lực cho ngày đẹp trời đó.
Trần Trung Đạo