là phản ánh chính sách phát
triển công nghiệp không chiến lược của Việt
Nam
Vũ Quang Việt
Hiện nay Quốc hội đang bàn về dự án Luật về ba đặc khu Vân Đồn, Văn Phong
và Phú Quốc, còn tôi lại đang viết bài đánh giá về chính sách phát triển công
nghiệp của Việt Nam mà tôi tạm gọi là chính sách phát triển không chiến lược. Vì thấy Quốc hội hiện nay có vẻ muốn thông qua nên tôi
thấy cần đưa ra vài kết quả có liên quan trong bài đang viết, hy vọng Quốc hội
tạm dừng việc thông qua để nghiên cứu và trao đổi thêm về mặt lợi hại, ít nhất
là về mặt kinh tế. Đơn giản là để đưa đến quyết định nghiêm chỉnh, bất cứ một dự
án luật nào về kinh tế, cơ quan đề xuất mà ở đây là Bộ Kế hoạch Đầu tư cũng phải trình bày cho dân đánh giá định lượng lợi và hại về mặt
kinh tế. Điều này không thấy có.
Dự luật trên không chỉ là cho phép nước ngoài thuê đất 99 năm, với quyền bán lại và giao
thừa kế, có thể được giảm tiền thuê đất, giảm thuế thu nhập rất nhiều năm, lại
cho phép người Việt chơi bạc và trao quyền quá lớn cho chủ tịch đặc khu như vua
con, và lại giao đặc khu quyền quyết đinh chi vượt thu 70%, có thể đưa đến tình trạng mất khả năng trả nợ. Đây là một số điều tóm
tắt từ dự luật trên:
1. Điều 33. Chủ tịch đặc khu được
cho người nước ngoài thuê đất 70 năm và đặc biệt 99 năm nếu được Thủ tướng đồng
ý. Vậy luật này vượt luật đất đai (50 năm) và cũng cho phép thủ tướng
vượt luật đất đai. Điều 126 của luật đất đai hiện nay cho phép trường hợp đặc
biệt tăng lên 70 năm: "Đối với dự án có vốn đầu tư
lớn nhưng thu hồi vốn chậm, dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn mà cần thời hạn dài hơn thì thời
hạn giao đất, cho thuê đất không quá 70 năm."
2. Điều 43. Thuế được ưu đãi.
Vừa thấp (10%), lại được miễn thuế 4 năm, giảm thuế 50% trong 9 năm tiếp.
Chỉ có đầu tư bất động sản là chịu thuế 17%. Cũng không có thuế nhập khẩu hàng
hóa đầu tư. Điều 40 miễn thuế thu nhập cá nhân trong 5 năm và giảm 50% sau
đó. Vậy thì chính quyền đào đâu ra tiền?
3. Điều 39. Đặc khu được quyền
bội chi không vượt quá 70% ngân sách thu. Như vậy phải đi vay để chi. Nếu vỡ nợ,
ai trách nhiệm?
4. Điều 45: Chủ tịch đặc khu được quyền cho miễn
thuế thuê đất 30 năm.
5. Điều 46: Người nước ngoài được
làm việc dưới 90 ngày và cộng dồn 180 ngày một năm không cần giấy
phép lao động.
6. Điều 47. Chủ tịch đặc khu được
giao rất nhiều quyền: Được ký hợp đồng lao động, tuyển công chức, được quyết định hệ số tiền lương tăng thêm; ban hành quy chế tiền thưởng thực hiện tại đặc khu và quyền cho miễn thuế nói ở trên. Và theo điều
36 chủ tịch đặc khu được quyền chọn thầu.
7. Điều
53. Người Việt Nam được phép vào chơi
casino tại điểm kinh doanh casino tại đặc khu theo quy định của pháp
luật về casino.
8. Điều 56. Chỉ cần bỏ ra 11 tỷ
đồng đầu tư (tức là 5 triệu USD) thì được cấp thẻ tạm trú 10 năm.
Ba cái gọi là đặc khu trên khó mà thu hút được bất cứ hình thức công nghệ
cao không bẩn nào (vì bẩn có ảnh hưởng tới du lịch) bởi vì nó không nằm
trong khu vực có khả năng phát triển tri thức.
Bỏ qua vấn đề chính trị và an ninh, dự luật trên về mặt kinh tế chủ yếu là
nhằm phát triển lợi ích của lợi ích địa ốc và đánh bạc trong và ngoài nước. Điều này không khác gì chiến lược thu hút đầu tư có vốn nước ngoài nói chung hiện nay, rất cần được đánh
giá lại.
Tình trạng chung là vì đặt lợi ích nhóm lên đầu, việc chọn lựa đầu tư nước
ngoài và quyết định vay nợ nước ngoài đã không dựa trên khả năng ảnh hưởng lan
toản, bỏ qua ngay cả khả năng sinh lợi,
thậm chí bất kể khả năng sinh lợi như trường hợp đầu tư vào Bôxit ở Tây Nguyên
và nhiều dự án điện than hiệnnay. Cho nên, dù dựa vào đầu tư và vốn nước ngoài như thế, năng suất lao
động tính theo GDP trên một lao động tăng thấp, tăng bình quân năm trong thời gian 2000 đén nay chỉ đạt
4.0%.
Tính toán chi tiết hơn cho thấy một hiện tượng kỳ lạ là năng suất lao động trong khu vực công
nghiệp tăng bình quân năm những năm qua (2011-2016) ở
Việt Nam rất thấp, chỉ đạt 2.9%, thấp hơn cả tốc độ tăng của nông nghiệp và dịch
vụ (coi biểu 2).
Biểu 2. Tốc độ
tăng năng suất lao động theo năm tính kép
|
|
Năng suất ngành (tính theo tăng kép giữ hai
năm 2016 và 2010)
·
Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản (GTTT trên 1 lao động)
|
4.3
|
·
Công nghiệp và xây dựng (GTTT trên 1 lao động)
|
2.9
|
·
Dịch vụ (GTTT trên 1 lao động)
|
3.1
|
Năng suất lao động của nền kinh tế (GDP trên 1
lao động) bình quân 2005-2016
|
4.0
|
Nguồn: TCTK: GDP, số liệu giá trị tăng thêm theo ngành và lao động.
Chú thích: Năng suất lao động cả nên kinh tế có thể tính bình quân năm từ
2005-2016. Tuy nhiên, không thể tính cho từng hoạt động vì lý do là TCTK chỉ
tính giá trị tăng thêm (GTTT) theo giá cơ bản kể từ năm 2010 đến 2016 (đúng theo khuyến nghị
quốc tế nhằm tách thuế và bù lỗ sản phẩm, nhằm loại trừ ảnh hưởng của chính
sách đến giá trị sản xuất). Tuy nhiên vì số liệu
trước 2010 không được
điều chỉnh nên không thể so sánh với số liệu trước đó. Chính vì thế nếu so sánh, mà không có hiểu biết về ý niệm
dùng trong thống kê kinh tế, ta thấy điều vô lý xảy là năng xuất công nghiệp giảm
16% năm 2010 và dịch vụ giảm 13% cùng năm, chỉ vì thuế sản phẩm năm 2010 bị loại. Để nghiên cứu năng suất lao động theo chuỗi
thời gian dài hơn, TCTK cần tính lại
số liệu từ trước năm 2010 theo giá cơ bản.
Với tình trạng trên, do dân số và lực lượng lao động tăng không hơn 1.0%
một năm cho đến 2025 và sau đó giảm xuống khoảng 0.7%, khả năng tăng GDP bình quân năm sẽ không hơn 5.0% năm nếu như năng suất
lao động không tăng cao hơn 4.0% một năm.
Với tốc độ tăng trưởng năng suất lao động công nghiệp hiện nay ở mức 2.9% một
năm, thấp hơn mức tăng trong nông nghiệp thì việc chuyển lao động từ nông nghiệp
sang công nghiệp thì năng suất lao động tính theo số tuyệt đối sẽ cao hơn, nhưng
tốc độ tăng trưởng lại thấp đi.
Việt Nam cần tính lại chiến lược phát triển công nghiệp trong đó cần đặc biêt xem lại chiến lược thu hút
đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, mà công hỏi cần được trả lời khi quyết định: liệu
đầu tư đó có sức lan tỏa tạo thêm công nghiệp phù trợ không, có thu hút lao động
trí thức và có tay nghề không và cuối cùng có
làm tăng năng suất lao động nói chung không?