Bút ký Thiện Tùng
"Họ
là những anh hùng không tên tuồi,
Sống âm thầm trong bóng tối mông mênh,
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh,
Nhưng can đảm và tận tình giúp nước…"
Trích thơ “Anh hùng vô danh”của Đằng Phương
Sống âm thầm trong bóng tối mông mênh,
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh,
Nhưng can đảm và tận tình giúp nước…"
Trích thơ “Anh hùng vô danh”của Đằng Phương
Đứng trên đê cao nhìn xuống, cái nhà nhỏ càng nhỏ,
thấp lè tè dưới mặt đất. Hết nhảy đường đứt nầy
đến đường đứt khác, Tín trước Tùng sau, men theo bờ ruộng về hướng nhà bà Hai,
một cơ sở nuôi dưỡng lực lượng cách mạng trong thời kháng chiến chống Mỹ ở xã Song Bình, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.
Ảnh minh họa |
Vừa đi Tín thỏ thẻ với Tòng: Nhà bả hồi đó rộng lớn cỡ nào anh đã biết, bây
giờ chỉ vậy đó thôi, một cái nhà khiêm tốn, hay nói đúng hơn là cái còi. Sau
khi anh bị thương
chuyển đi rồi, quân đội Việt Nam Cộng hòa
thường xuyên càn quét vào vùng nầy,
họ lùng sục trong địa hình rồi đốt sạch nhà cửa xung quanh. Họ cho rằng xóm nhà
nầy là chỗ Việt Cộng dựa dẫm. Khi đốt, họ không cho chữa, không cho lấy đồ đạc
ra, đợi cháy rụi hết họ mới chịu rút đi, chủ nhà chỉ còn than trời, trách đất.
Sau
vụ đốt nhà đó, cả nhà bà Hai, mỗi người chỉ còn một bộ đồ dính thân và một cây me bị lửa tạt sém hết
nửa thân, hiện giờ nó cố gượng sống với những ngày tàn bên cạnh một khổ chủ.
Đến
nơi, Tín rón rén bước vào nhà, vỗ tay đánh động rồi hỏi ngay:
– Bộ
bịnh sao nằm chèo queo vậy bà ? .
–
Gió bấc lạnh thấu xương, nằm
co cho ấm .
Bà
Hai ghé mắt sát rồi đấm vào lưng Tùng nói:
– Mồ
tổ mầy, bị thương rồi biệt luôn, tao tưởng mầy
theo ông bà rồi chớ! Bây giờ mầy ốm, tóc bạc lỗ chỗ khác xưa nhiều. Nếu gặp
ngoài đường, không ai nói, tao sẽ mặt lạ với mầy ! .
– Đã
hơn 30 năm rồi còn gì – Tùng nói.
Lũ nhỏ ùa vào, chúng há hốc miệng nhìn chòng chọc
vào Tùng và Tín. Bà Hai nhìn lũ trẻ nói: Lũ con thằng Dững đó đà, vừa trai vừa gái bốn năm
đứa lủ khủ. Nhà thằng Dững ở kế bên tao, nhà thằng Dừa ở kế bên thằng Dững – một
dãi, ba mẹ con ở khít đeo. Nay tụi nó đi cắt lúa trả công cho người ta ở kinh dưới,
gần nhà con Bê.
Thấy Tùng và Tín đứng xớ rớ, bà Hai giục mấy đứa
nhỏ về nhà xách ghế. Mấy đứa nhỏ vụt chạy đi, bà lẩm bẩm: Cái giường xệu xạo thế nầy, nếu hai đứa bây chất lên nữa
sập ngay, thanh tre mà hả họng hả hầu hết rồi !.
Mấy đứa nhỏ xách ghế tới, chui vào chỗ Tùng và
Tín rồi ra cửa đứng tiếp tục nhìn vô. Bà Hai nói như lịnh: Hai đứa ngồi ghế đi, còn lũ nhỏ ra ngoài chơi, đừng đứng cửa nhìn vào không nên!.
Lũ nhỏ vừa dợm chạy, Tùng gọi giựt chúng lại,
thay vì gói bánh xâm banh định cho bà Hai, cho lũ trẻ tội nghiệp nầy. Tùng vừa
chìa gói bánh ra, bà Hai hước lấy, miệng lẩm bẩm: Để tao chia, không thì chúng giành ăn
móc họng với nhau bây giờ.
Tùng
đưa gói bánh cho bà Hai cũng là lúc mấy đứa nhỏ đổi hướng nhìn – thay vì nãy giờ
chúng nhìn Tùng, bây giờ chúng đổ xô nhìn bà Hai, đúng hơn là chúng nhìn theo
gói bánh. Chúng dõi theo coi Bà chia có đồng đều không.
Bà
chia đều mấy cái cho mỗi đứa rồi đuổi chúng đi, trông chúng chỉ vừa lòng với hiện
tại. Bao nhiêu bánh còn lại bà gói để trên nắp lu. Thứ bánh xốp xộp, mỗi đứa chỉ
có mấy cái thấm vào đâu, tráng mép đã hết.
Câu chuyện người lớn vừa bắt đầu, lũ trẻ lại tràn vào, nhìn dáo dác rồi bu quanh cái lu, mắt đổ dồn vào gói bánh còn lại. Thấy vậy,
Tùng mở toạc gói bành ra nói: Các cháu cùng ăn
đi, hết thôi rồi ra ngoài chơi.
Lũ trẻ bao tròn cái lu, miệng nhai tay bốc,
trong chốc lác đã hết sạch ký bánh mà xem mòi chưa thấm. Một đứa nắm túm miếng giấy
trút vào miệng vớt vát những miếng bánh vụn rồi cùng vọt ra sân, trả lại sự yên
lặng cho người lớn.
– Lũ
mất dạy!…– bà Hai nói với vẻ bực bội.
–
Sao lại mất dạy, bảo đi lấy ghế chúng chạy đi ngay, ngoan đó chớ. Có lẽ chúng
đói và thèm nên mới tươm tướp
như vậy. Con nít, đừng chấp nhứt chúng trong việc ăn uống bà ơi?! – Tín nói đỡ
cho lũ trẻ, xả căng.
- Con
nhỏ bự đầu nhứt trong đám, đã 14 tuổi rồi mà nó ăn vụng không nói được. Mỗi
ngày tao nấu một lon gạo, ăn sáng, số còn lại để chiều, thế mà nó cứ lỏn vào ăn
hết. Đi đâu tao đều khóa cửa lại, nhưng nhà nầy khóa cửa ăn thua gì, dừng lá
xé, vạch vách chui vào thôi.Tao nói thứ gì ăn được hễ để hở là nó ăn, giữ mèo
còn dễ hơn giữ nó. Tao nói nó ăn vụng
thành tật rồi ! – Bà Hai nói với vẻ bực bội.
Bà
Hai càng nói Tùng càng lường được nỗi khó khăn túng quẩn của gia đình
và sự bất hạnh của lũ trẻ. Con những gia đình khá giả, bánh bao, sữa… mà chúng
còn không chịu ăn uống, còn phùng thẩy. Tín nói đúng, do đói, do thèm nó mới
đòi ăn. Đòi không được phải tự đi kiếm, nếu kiếm ngoài đường không có thì vào
nhà, không cho thì lén lấy, ăn vụng chớ có chi là lạ?. Chúng nó chưa trưởng thành, đang như những con chim non, việc ấm
no phụ thuộc vào ông bà, cha mẹ. Sao người lớn không tự trách mình mà lại trách chúng ?!. Tùng muốn giãi bày cảm nhận của mình như thế với bà Hai, nhưng sợ bà giận, cuộc viếng thăm
mất vui, không trọn vẹn. Tùng lờ chuyện lũ nhỏ, sang chuyện khác:
–
Sao bà cất nhà hẹp té, thấp lè tè, vào ra phải khòm, nếu không lá xốc vào mắt
chớ chơi đâu?!.
–
Tháng trước gió sập, mới cất lại tốn 200
lá xé vừa lợp vừa dừng. Ăn nhiều chớ ở bao nhiêu. Tiền bạc eo hẹp, nhà nhỏ cất
cao coi sao được. Tao với còn không tới mái kia mà.
Tín
bật cười khan. Bà Hai hỏi:
–
Tao nói thế không đúng sao mầy cười ?
–
Nói là nói người khác, chớ bà đi khòm cái đầu gần sát đất mà xốc cái nỗi gì. Đúng nhà bà là nà vào lòn ra cúi
– cùng cười.
– Dượng Hai mất hồi nào ? – Tùng hỏi.
– Khi tụi bây rút đi khỏi vùng nầy, nhà bị đốt, ổng
sinh ra bịnh khùng khùng điên điên, đi tầm bậy tầm bạ rồi mất tích luôn, kiếm
hoài không được, hết tiền hết bạc, riết oải, lâu lắm rồi bặt tăm bặt tích không
biết còn sống hay chết… Biết sao giờ, tao lập bàn thờ, lấy ngày ổng đi lần chót
làm ngày giỗ. Bây thấy đó, có hình hẹo gì đâu. Năm chúng đốt nhà cháy cả giấy
Căn cước. Sau đó xin làm giấy lại, bọn làng đú vời, ghét bỏ ở lậu luôn. Thằng Dững
lớn thây cho nó vào du kích, đụng trận thương tích đầy mình, hiện giờ nó “nắng không ưa, mưa không chịu, nhác gió, kỵ mù sương”.
– Bà
ở một mình rồi sống bằng cách nào ? – Tùng hỏi.
– Số
ruộng hồi trước tao chia cho thằng Dững, thằng
Dừa, chừa lại 3 công, tao đâu làm nổi, cho thằng Dững mướn, mỗi năm nó chung
cho tao 12 giạ lúa, đủ ăn trong năm. Ngặt nỗi, năm nào thất mùa, thằng Dững nó
không chung hoặc chung không đủ thì gay. Nó không
có mà đòi cái gì, nó là con không lẽ tao đi thưa gởi nó coi sao được, chửi mắng
nó chi cho thêm mỏi miệng.
Như sực nhớ, bà Hai hỏi: “Hai đứa bây có biết thằng Mười Kỷ không, nó làm chức gì đó lớn lắm ở Bến Tre. Hồi chống Mỹ, gánh nó ra vô nhà tao ấp lẫm. Cách
đây mấy tháng, tao sang Bến Tre tìm thăm nó. Người ta chỉ chỗ nó làm việc,
đến cửa lính gác không cho vô. Tao tự xưng là người thân của thằng Kỷ. Họ báo vào trong, lát sau thằng
Kỷ cho người ra cổng rước tao vô tận dinh. Gặp tao nó đâu có nhớ, nói tới nói
lui nó mới nhận ra tao – đúng là thằng mau quên.. Lâu mới gặp nhau, thăm hỏi
chưa cạn lời, nó báo bận đi họp hành gì
đó. Nó nhét vào túi tao ít tiền và cho xe đưa tao ra đến bến xe. Sau khi nghe
tao kể việc đi thăm thắng Kỷ, thằng Dững cũng mò qua bên ấy, nhậu quậy sao đó,
bị thằng Kỷ rầy. Từ đó đến nay nó thụt luôn không dám bén mảng qua bên ấy nữa”.
Tín lẹ miệng: “Ổng Mười Kỷ một thời làm bí thư tỉnh ủy Bến tre, tụi nầy
còn lạ gì về ông ấy. Nghe đâu ổng đã về hưu, có cái biệt thự ở cạnh cầu Gò Đàn, ngoại ô thị xã Bến Tre, bên bờ sông Cái Cối…”.
Bà Hai lại khoe: Mấy thằng cán bộ sống sót trong chiến tranh,
đang làm việc ở Chợ Gạo nầy, có đứa nào không biết tao. Có lần tụi nó kéo đến
đây thăm tao. Chúng nó nói, bà lớn tuổi ở một mình không nên, chú Dững là thương binh, chúng tôi sẽ đề nghị trên cấp cho bà cái
nhà tình nghĩa, nếu không được cũng trợ cấp cho chú Dững
khoảng 10 triệu đồng để sửa nhà chú ấy cho đàng hoàng hơn rồi rước bà qua đó ở cho có mẹ có con. Tụi nó
nói tao nghe cũng phải. Nhưng đến nay chưa thấy gì, có lẽ còn lo cho những người khó khăn hơn gánh tao. Tao lo là lo cho thằng Dững,
thằng Dừa, chớ còn tao thì yên bụng rồi, đã mua được cái thọ dưỡng già
– đang gởi bên nhà thằng Dững. Tao ăn chay trường, gạo có sẵn, chỉ mua đậu hủ,
nước tương về “tẩn lịm” với ba trái đậu bắp, đậu rồng, cà chua… trồng quanh nhà
là xong việc.
Tùng nhìn bà Hai, cười, nói: Bà ăn chay riết chắc chết sớm, còn đeo chi xâu chuỗi lòng thòng cho thêm nặng?!.
Bà hai cúi mặt giây lâu rồi đứng dậy nói: “Hai đứa ngồi chơi, tao qua coi thằng Dững,
thằng Dừa về chưa”.
Bà
Hai đi rồi, Tín kéo ghế lại gần, ghé miệng nói nhỏ vào tai Tòng:
–
Tôi đã bị rồi…, vậy là bả giận anh rồi đó !.
–
Tao làm gì bả giận ?
–
Anh phê bả ăn chay và đeo chuỗi chớ còn gì !
–
Tao nói thế không phải sao ? – đâu lẽ chỉ vậy mà bả giận!.
– Thôi ông ơi, để tôi kể cho ông nghe: Cách nay vài năm, bả đến thăm tôi. Vợ tôi mua thịt
cá làm cơm đãi bả. Khi dọn ra, bả nói tao ăn chay, làm lỡ bộ.
Trong khi chờ vợ tôi đi mua thức ăn chay, tôi vui miệng khuyên bả nên ăn mặn để
tăng sức và đừng đeo chi xâu chuỗi thêm nặng như anh nói. Cũng như hôm nay, bả ngồi lặng thinh hồi
lâu, buồn bã phân trần: Mầy
bảo tao bỏ xâu chuỗi khác nào bảo tao bỏ người thân của tao sao ! Người thân tao đông lắm,
trong đó có mầy. Tao không biết chữ, mỗi hột trong xâu chuổi nầy là một đứa
theo Cách mạng mà tao quen biết, tao coi chúng như những con tao. Từ sau Tết Mậu
Thân (1968), lũ nó lần lượt hy sinh, sợ không nhớ nổi, tao làm cái gút ở giữa
xâu chuổi, đứa nào hy sinh tao chuyển một hột về bên trái – phía trái tim mình. Mỗi lần chuyển là mỗi lần tao rơi nước mắt và niệm Phật. Tao ăn chay kỳ, niệm Phật
tụi nó cũng chết. Tức mình tao ăn chay trường, niệm
Phật hàng đêm, ấy thế mà lũ con tao vẫn tiếp tục chết. Xem đây nầy, hơn phân nửa
số hột đã nằm bên trái.Tụi bây không biết đó chớ, ăn chay sướng ích gì, lúc đầu
không quen xót ruột lắm, ngủ nghê không được, mắt thâm quầng, nhưng riết rồi nó
cũng quen. Bây giờ, hễ hưởi mùi thịt cá là tao phát buồn nôn. Đây là xâu chuỗi
bình thường, nó như bàn tính của người
Tàu, nếu đem quăng nó bên đường chưa chắc có ai thèm lượm. Ấy thế, có nó đỡ tẻ
lạnh. Đêm đêm, tao lần từng hột chuỗi như mò về quá khứ để mà nhớ mà thương… Ăn chay, lần chuỗi kiểu của tao như lần mò xuống địa ngục chớ đâu phải tìm lên thiên đàng. Nói đến đó, bả nhìn vào
em, rơm rớm nước mắt. Em lặng cả người,
cổ nghẹn, không cầm được nước mắt.
Thấy
bà Hai về đến cửa, Tín ngưng kể, làm tĩnh, hỏi vói ra:
– Hai
đứa nó về chưa ?
– Giờ chưa về đến chắc là “đụng trận” rồi.
Hễ đụng trận thì còn tính gì giờ giấc. Cũng đã tối rồi, trời sắp mưa, hai đứa về kẻo mưa đường trơn trợt khó đi lắm.
Trước mặt bà Hai, Tùng ôn tồn:
–
Do không hiểu, hồi nãy con vô tình nói có phần xúc phạm đến tình cảm
riêng tư của dì, xin dì bỏ qua cho!. Đây là cái mền, con tặng dì phòng lạnh, khi nào tiện
tụi con trở lại thăm dì .
– Bộ thằng Tín nói gì với mầy? – Thì
vậy đó…, Dì cám ơn con.
Trên đường, Tùng tâm sự với Tín: Đúng là bà Hai nghèo dưới mức đủ ăn, từ cái bàn thờ đến tất cả những vật
dụng trong nhà không có gì đáng. Chỉ cần đứng
một chỗ trong nhà nhìn thấy không sót những gì bà có, đặc biệt là không thấy
dép ?!.
Với giọng trầm buồn, Tín phụ họa: Kẻ chết đuối không thể vớt người chết trôi. Thôi
thì từ nay mình cũng làm theo kiểu “lá rách ít đùm lá rách nhiều”. Theo em, cái
nghèo hiện nay đâu chỉ đeo đuổi bà Hai, nó đeo đuổi bất cứ ai không còn đủ sức
chạy đua với cuộc sống – kể cả tôi và anh. Từ hữu sản biến thành vô sản
thì dễ, ngược lại quá khó. Chẳng biết các
ông bà quan ngày nay, lòng nhân ái của họ chó ăn hết
rồi sao: tận thu thuế rồi dùng công quỷ hết xây trụ sở, đền đài, lăng tẩm,…đến
xây biệt phủ cho riêng mình, bỏ dân sống chết mặc bây!.
Gió đổi chiều, mây đen
sà xống thấp báo hiệu sắp có cơn mưa,Tùng giục Tín cố lên. Khi hai người sóng
vai, với giọng trầm buồn, Tùng tổng quát: “Rốt cuộc cũng chỉ thay đổi tập
đoàn thống trị bóc lột nầy bằng tập đoàn thống trị bóc lột khác mà thôi?!”.
Mỹ Tho, 26/01/2016
Thiện Tùng