MÊNH MÔNG THẾ SỰ ĐỂ GIÓ CUỐN ĐI
SỐ 57
Tương
Lai
Những ngày cuối năm Sài Gòn se lạnh càng gợi nhớ cái rét Hà Nội,
nhớ cái rét Miền Bắc: Hà Giang 40, Sapa của Lao Cai30, có lúc 00; Mẫu Sơn của Lạng
Sơn xấp xỉ 00, màn hình tivi trắng xóa tuyết đang rơi…Bỗng thèm những chuyến đi
như dạo nào với Đại, với Hoàng Đốp, với Bế Văn Hậu. Từ Hà Nội lên Lạng Sơn (quê
của Hậu), rồi từ Lạng Sơn qua Thất Khê, Đông Khê lên Cao Bằng, xe Lancruiser
đóng kín cửa mà mấy ngón chân, ngón tay vẫn tê buốt.
Rồi lại chuyến đi cùng với Phạm Xuân Đại, Trịnh Hòa Bình lên
Lũng Cú Hà Giang trở về qua cung đường Mã Pì Lèng, Mèo Vạc, vượt cổng trời Quản
Bạ để đến cao nguyên đá Đồng Văn trong sương mù phủ kín...Còn có chuyến đi toát
mồ hôi, phải cởi áo khoác, áo len cầm
tay khi hụt hơi leo dốc trong chuyến đi cùng đoàn cán bộ khoa học do Bộ
KH&CN tổ chức đến khảo sát tại chỗ địa điểm sẽ xây công trình thủy điện Sơn
La tại tuyến Pa Vinh ở xã Ít Ong, huyện
Mường La thì lại có một phong vị khác…
Trong hoài niệm có những
bóng dáng đã nhòe đi nhưng có cái vẫn như lay động, giục giã, đó là cái rét thấm
vào da thịt. Mà nói cho có ngọn nguồn, thì cái rét đang thấm trong tim tôi, lại
khởi đầu từ Hà Nội, khởi đầu từ một kỷ niệm rất ngớ ngẩn nhưng lại đeo đẳng suốt
70 năm qua. Đó là cái rét đầu đông năm 1954 bắc cầu qua giêng hai, năm 1955 của
những ngày “tiếp quản Hà Nội” chìm
sâu trong ký ức tuổi trẻ. Cuốc bộ từ trường Bưởi, Thụy Khê nhởn nha theo đường
Quan Thánh vẫn còn leng keng tàu điện chuyến cuối hoặc gần cuối, khi thì vượt cống
chéo Hàng Lược theo đường Lương Văn Can ra Bờ Hồ, khi thì qua bốt Hàng Đậu,
giông thẳng ra chợ Đồng Xuân, theo đường hàng Ngang, hàng Đào ra thẳng nhà Thủy
Tạ, Hồ Gươm.
Để gì? Chỉ để đến gốc sấu cạnh nhà Thủy Tạ có ông Khách bán bán
rán. Một cái chảo mỡ sôi sùng sục, ông già Tàu thong thả vớt từng mẻ bánh rán
chỉ nhỉnh hơn ngón chân cái một tí, trút vào một cái rổ sắt đặt trên một chậu
sành bên cạnh, rồi lại tiếp tục nhặt mẻ bánh khác do cô cháu vừa vo xong để đặt
nhẹ vào chảo dầu. Cũng ông, tùy theo khách gọi mua mà rút từ cái túi vải dày,
treo trên chiếc đinh đóng vào thân cây sát cạnh, những chiếc túi giấy báo to nhỏ
đựng bánh và vui vẻ thu tiền nhét vào túi áo trước ngực sau khi đưa túi bánh
cho khách. Hình như ông quen mặt nhiều người mua bánh nên có khi đệm vào bánh
rán một lời thăm hỏi kèm theo nụ cười méo móm hiền lành, rất dễ thương. Tôi những
mong nhận được từ ông một “ân huệ” ấy nhưng không được, có lẽ vì tôi mỗi tuần mới
đến mua bánh của ông có một lần, may lắm là hai!
Dạo ấy, chúng tôi chỉ có được “ước mơ nho nhỏ” là mỗi tuần rủ
nhau ra hồ Tây ăn bánh tôm hoặc cuốc bộ ra Hồ Gươm anh bánh rán “ông Khách”.
Trong cái rét căm căm mà mấy ngón tay tê buốt vẫn phải cầm cái túi giấy đựng
bánh rán chứ không dám cho vào túi áo bông dày sụ vì sợ dây mỡ vào. Trang bị chống
rét của tôi, và cả bọn chúng tôi cũng đều thế, là
cái áo bông Tàu được cấp phát khi từ Việt Bắc về Thủ đô. Có lúc tôi mặc thêm
vào trong cả chiếc áo len chị tôi đan cho, nhưng phải là những ngày rét quá, chứ
thường thì phải cất giữ cẩn thận.
Hồi ấy “sinh hoạt phí” khá ngặt nghèo, nên những khoản “cải thiện”
thú vị mà thích hợp nhất là hai món tôi vừa kể. Thế mà cũng phải có chút “dành
dụm” thì mới rủ nhau cùng đi được. Ấy vậy mà một người rất Hà Nội, người Hà Nội
mà tôi yêu quý nhất, anh Việt Phuơng, có lần hỏi tôi kỷ niệm sâu nhất của TL về
Hà Nội là gì, một thoáng suy tư tôi trả lời không chút ngập ngừng: “ăn những cái bán rán nóng bỏng mồm bên Bờ Hồ
những ngày về tiếp quản Thủ Đô”! Chuyện này có giây mơ rễ má khá sâu đậm vì
cũng chính từ cuối năm 1953 anh Việt Phương gặp tôi, và rồi sau đó mới có việc
tôi ở trong đoàn “về tiếp quản Hà Nội”,
và rồi mới có câu hỏi và câu trả lời kia. Cũng còn những lời tâm sự mà tôi hiểu
anh có ý căn dặn điều mà anh đang day dứt, sau này và nhất là những ngày gần
đây, qua một vài bài viết được tung lên mạng mà tôi đọc thấy những thâm ý tệ hại,
lại càng thấy mình nợ những day dứt của Việt Phương một câu trả lời dứt khoát,
nhưng có lẽ phải có thời gian. Đó là câu chuyện của quãng cuối tháng tư năm
ngoái, 2017, những ngày Việt Phương bệnh nặng và Phạm Xuân Đại đưa tôi đến bên
giường bệnh, anh em chúng tôi ngồi yên lặng bên nhau khi tôi bay từ Sài Gòn ra
mà tôi đã có dịp viết trong “Mênh mông thế
sự”.
Trong cái thế sự mênh mông ấy thì bao nhiêu sự kiện đã trôi đi
chẳng để lại một dấu vết đáng kể nào, nhưng cũng có biết bao những sự kiện, con
người, cảnh vật… mà năm tháng chỉ có thể làm hằn sâu trong ký ức, hoặc để buốt
nhói trong tim, hoặc để xoa dịu những nỗi đau và trào lên một nguồn sống mạnh mẽ,
đẩy lùi bớt đi những ô nhiễm nhày nhụa tối tăm. Một trong đó là ánh lửa của các
cháu nhỏ đốt lên ở đoạn đường đèo đổ dốc vào một buổi chiều Đông Bắc.
Cái rét đầu đông đang thức dậy trong tôi chuyến đi năm 1996. Từ
cột cờ ở Lũng Cú, chúng tôi ghé thăm đồn biên phòng rồi xuôi về Mèo Vạc qua
cung đưởng Mã Pì Lèng, cổng trời Quản Bạ, về cao nguyên đá Đồng Văn. Cạnh lề đường,
một nhóm mấy cháu nhỏ ngồi sưởi bên một đống lửa. Tôi đề nghị lái xe cho dừng lại,
xuống cạnh các cháu, ba cháu trai, hai cháu gái mặt hồng lên cạnh đống lửa. “Các cháu ngồi đây lâu chưa?”. Cháu trai
đội mũ nồi nhanh nhảu: “đợi bò ăn cỏ, lát
nữa mới lùa về”. Về đâu? “Kia kìa”,
cháu đứng dậy chỉ tay về phía thung lũng bên dưới, tôi nhìn thấy mấy ánh đèn lấp
ló trong sương mù. Bỗng loáng thoáng có tiếng hát khi xa, khi gần, nghe giai điệu
quen quen. “Những ai hát đấy cháu”,
tôi hỏi. Vẫn cháu trai nhanh nhảu : “các
chú bộ đội đi kiếm củi hát đấy”. Cháu gái rụt rè cất tiếng nhỏ nhẹ không dấu
được sự lo lắng: “các chú đang hát là
đang đi về đấy, đồn biên phòng còn xa, chắc tối mịt mới đến được ”. Tôi thấy
lòng xốn xang, đặt hai bàn tay lên vành tai cố lắng bắt tiếng hát lãng đãng
trong sương chiều, tiếng được tiếng không : “Cụm rừng nào lá xác xơ cây, từ vực sâu nghe lời mời đã dậy…”.
Chao ôi, nhạc Trịnh! “Cát
bụi” của Sơn len tận nơi thâm sơn cùng cốc này sao? Tim tôi như thắt lại, một
cảm xúc trào dâng, nghẹn ngào. Nhìn váo ánh mắt cháu gái bé tí xíu giữa mênh
mông rừng núi vào một buổi chiều mờ sương như thế này lòng tôi xốn xang bao ý
nghĩ. Tôi hỏi “các cháu lớp mấy rồi”.
“Lớp năm và lớp sáu” vẫn cháu trai đội
mũ nồi hào hứng trả lời, “nó học giỏi nhất
đấy, cô giáo yêu nó lắm đấy, cô ở dưới xuôi lên mà”, chỉ vào cô bé đã nhỏ
nhẹ nói về các chú bộ đội đi kiếm củi, đang e thẹn cúi mặt, cháu “mũ nồi” vừa cười
vừa nói. Nhìn vào các cháu túm tụm bên đống lửa trong gió rét căm căm của buổi
hoàng hôn giữa núi rừng, tôi cố hình dung cái ánh đèn le lói dưới thung lũng
kia đang rọi chiếu trên tập vở của đám trò nhỏ mà cô giáo dưới xuôi kia đang
thong thả chấm bài. Có tiếng còi xe giục, tôi đứng dậy, rút chiếc bút trên túi
áo đặt vào tay cô bé đang e thẹn hơ trên lửa, rồi vội vã ra xe trong tiếng đáp
hối hả của cháu bé “không lấy đâu, không
lấy đâu” giữa những tiếng cười giòn của đám bạn trai. Trước khi bước lên xe,
tôi bỗng sững lại, cố dõi theo tiếng hát để rồi bắt gặp phía xa xa kia, dòng
sông Nho Quế ẩn hiện trong từng mảng ánh sáng của le lói ráng chiều thoi thóp mờ
tắt. Nhiều năm trôi qua, tiếng hát ấy, ngọn lửa ấy,
ánh mắt ấy, ngọn đèn ấy, dòng sông ấy trong cái lạnh cắt da cắt thịt ấy vẫn
chìm sâu trong ký ức, thức dậy trong tôi những xúc động kỳ lạ. Nếu tôi nhớ
không nhầm thì tôi đã viết những điều vừa kể đăng trên báo “nhà nước” khi tôi
chưa bị cấm tuyệt đối không được xuất hiện trên bất cứ tờ báo chính thống nào.
Tôi háo hức với ý nghĩ phải kể với Trịnh Công Sơn câu chuyện nhỏ
nhưng thật thú vị này? Thì mùa hè năm trước, trong cái nắng như thiêu đốt, Hà Nội
lên đến 39, Sơn ra Hà Nội tiễn anh Văn
Cao ra đi vĩnh viễn. Tụ tập tại nhà tôi, Sơn đóng bộ complet đen, thắt ca vát
đen. Kiểu này mà xuống Mai Dịch thì có lẽ ngất, vì tại nghĩa trang phải trên 40.Tôi cố thuyết phục: “thôi Sơn à, Sơn chỉ
đến 51 Trần Hưng Đạo để tiễn anh Văn một đoạn, rồi xe mình sẽ đưa Sơn thẳng lên
sân bay, không thể vào Mai Dịch khi Sơn đang yếu thế kia”. Thái Bá Vân cũng
bàn vào “tôi sẽ thay ông đưa chai Chivas
này lên tưới vào mộ anh Văn thay ông, ông đừng để chúng tôi phải tiễn luôn ông
đi cùng anh Văn, nghe chúng tôi đi”. Và rồi Thái Bá Vân đã thực hiện lời hứa
đó.
Khi tang lễ đã hoàn tất,
người ta chuẩn bị xếp những vòng hoa lên trên mộ thì Thái Bá Vân vội bước ra: “khoan khoan”. Vừa nói anh vừa rút trong
túi ngực ra chai rượu Chivas, nhưng lúng túng mãi không mở được nắp khiến Trần
Hoàn thất sắc. Chắc là ông chủ trì tang lễ ngỡ có chuyện bất ngờ mà y ta chưa kịp
đề phòng chăng? May quá, ông Lâm, chủ quán cà phê 60 Nguyễn Hữu Huân bước tới,
túm lấy chai rượu, nhẹ nhàng mở nắp rồi trao lại cho Thái Bá Vân thủng thẳng
rót tượng trưng từng chén, từng chén một lên mộ Văn Cao : “đây là của Trịnh Công Sơn tiễn anh, đây là của tôi tiễn anh, đây là…tiễn
anh…”. Chắc là Trần Hoàn thở phào!
Tưởng cũng nên vài dòng về ông chủ quán cà phê mà nhà văn Nguyễn
Tuân đã cao hứng so sánh quán cà phê nhỏ phố Nguyễn Hữu Huân của ông Lâm, nơi
có một không gian nghệ thuật từng hằn sâu những nét dấu của người thủ đô vốn ẩn
kín một chiều kích sâu thẳm văn hóa, lịch sử và nhân văn này, với bảo tàng nghệ
thuật quận Paris. Suốt cả chặng đường ra nghĩa trang, người chủ quán có “biệt
nhỡn liên tài” này yên lặng, yên lặng như khi đặt ly cà phê trên cái bàn gỗ nhỏ
trước mặt tôi mà đôi lần tôi có dịp cùng với Thái Bá Vân đến quán ông. Ông cũng
nín lặng đứng khuất vào nhóm bạn bè trước tang lễ Văn Cao trong dáng vẻ gầy gò
trầm tĩnh trong tấm áo đã sờn. Thường vẫn vậy, chỉ những thùng rỗng mới kêu to! Bỗng thoáng trong óc
tôi, ánh mắt và giọng nói rụt rè của cháu bé trước đống lửa được nhóm lên trên
cung đường Mã Pì Lèng từng ngập tràn trong tôi niềm xúc động khó nói được nên lời,
hay viết vào trang giấy.
Cuộc sống có những điều thật đơn sơ, đôi khi là nhỏ nhặt, nhưng
lại cao cả và đẹp vô cùng. Chỉ buồn một nỗi là nhiều trong họ đã ra đi. Trịnh
Công Sơn, Thái Bá Vân, Nguyễn Tuân, Việt Phương, Lâm cà phê…đã thành người
thiên cổ. Nhưng dù có như thế, thì những kỷ niệm đẹp về họ, hình ảnh của họ là
những cái phao cứu rỗi cuộc sống tinh thần của tôi, sưởi ấm tâm hồn không chỉ
riêng tôi, đang phải ngập ngụa trong một môi trường sống bị đầu độc bởi những
gương mặt nhày nhụa đạo đức giả với những rao giảng bịp bợm được gom lại thành
quy tắc, nghị quyết vung vãi khắp nơi. Những cứ muốn nối tiếp lời ca của những
người lính biên phòng trẻ tuổi đang tan trong sương lạnh núi rừng Đông Bắc tổ
quốc nơi thung lũng có con sông Nho Quế chảy qua: “Mặt trời nào
soi sáng tim tôi”.
Và rồi cái lạnh của Tây Bắc cũng chẳng khác mấy những buốt giá của
núi rừng Đông Bắc, mà chuyến đi Sơn La dạo ấy để lại khá nhiều kỷ niệm và cảm
nhận thú vị. Có chuyến đi ấy vì nghe đâu đã có lời cảnh báo “Nếu đập Sơn La vỡ, chiếc xe tăng 40 tấn ở Sơn Tây sẽ bị
thổi bay như lá vàng. Sau 30 phút, toàn đồng bằng Bắc Bộ chìm sâu 4-60m, cướp
đi sinh mạng 15 triệu người !”. Không hiểu ai đã gọi tôi vào chuyến đi do anh Đặng
Hữu, Bộ trưởng Bộ KH&CN dẫn đầu đoàn cán bộ của 4 bộ cùng đi trong chuyến
khảo sát thực địa ấy. Cùng với hai anh Lê Thạc Cán và Nguyễn Thượng Hùng, ba
chúng tôi được mời với tư cách là những chuyên gia độc lập không thuộc bộ nào,
hình như anh Cán là chuyên gia về thủy lợi và môi trường, anh Hùng là về địa chất
(?), và tôi là xã hội học tham gia vào đoàn khảo sát. Đoàn khá đông, nay tôi
không còn nhớ rõ, chỉ biết đích đến sẽ là Pa Vinh ở xã Ít Ong,
huyện Mường La, nơi sẽ quyết định cao độ của thủy điện Sơn La. Chúng tôi sẽ đến
bằng hai cách. Một là đi thuyền ngược sông Đà đến Ít Ong. Tôi khoái đi
thuyền vì bị ám ảnh bởi Tùy bút Sông Đà của Nguyễn Tuân về “con ngựa bất kham” này. Nhưng sự đời vốn
trêu ngươi, tôi lại được chỉ định phải theo đường bộ. Đành lội suối, trèo đèo
mà đến địa điểm đập Pa Vinh ở xã Ít Ong vậy. Lâu lắm rồi, kể từ hơn nửa thế kỷ
trước, năm 1950, tôi trải nghiệm lại việc “thở
bằng tai” khi vượt dốc, leo núi, băng rừng suốt 6 tháng trời, từ chiến khu
Dương Hòa của Huế để ra Việt Bắc. Dù sao thì chuyến đi này vui hơn nhiều.
Chỉ ngượng một điều là cứ phải lẽo đẽo theo sau một chị phụ nữ
Thái. Chị đi dép lê, dáng người mảnh khảnh, vậy mà bước chân cứ thoăn thoắt
phía trước, thỉnh thoảng lại phải mỉm cười đứng chờ cánh mày râu thở phì phò nặng
nhọc lê phía sau. Có lúc chị lại phải chìa tay kéo một vài trong chúng tôi vượt
lên một mỏm đá ngáng đường mà vất vả vượt lên. Mãi về sau tôi mới biết người phụ
nữ ấy là chị Tòng Thị Phóng, bí thư Tỉnh ủy Sơn La. Mấy năm sau chuyến đi ấy,
khi gặp lại tại Hội nghị Ủy ban TƯ Mặt trận Tổ quốc VN chị vẫn nhận ra tôi và
thân mật chào hỏi. Thế rồi chuyến khảo sát thú vị được kết thúc bằng hai ngày tổng
kết tại Sa Pa.
Mệt rã rời nên hình như cũng chẳng có ai
tính chuyện dạo chơi ngoạn cảnh chỉ tụ tập tán gẫu. Có một chuyện khá hài hước.
Trước bữa ăn trưa, nửa ngồi nửa nằm trong gian phòng họp, anh Bùi Thiện Dụ, Vụ
trưởng Vụ đối ngoại của Bộ KH&CN nếu tôi nhớ không nhầm, chỉ vào tôi nói tỉnh
khô, song tôi biết ngay là ngầm một ẩn ý : “này
các ông ạ, thì ra ông này cũng làm khoa học như anh em chúng ta ở đây đấy”.
Sau này hỏi ra mới biết là chính Bùi Thiện Dụ đề xuất ý kiến mời tôi tham gia
đoàn khảo sát. Tôi hiểu ra tôi đang là “con
ngựa trắng” giữa cánh các anh em trong đoàn khảo sát, tất cả đều thuộc chuyên ngành khoa học tự nhiên. Cánh khoa học xã hội, chẳng phải chỉ mình tôi
ngồi đây mà là nói chung, trong con mắt của nhiều người, là những người chuyên trị võ mồm, ăn theo nói leo theo
lãnh đạo, nhai lại chỉ thị nghị quyết.
Cả bọn phá lên cười, vui vẻ nhìn tôi đang ngơ ngác ngượng nghịu.
Được dịp, Chu Hảo chêm vào: “thế thì để tôi kể cho các anh nghe câu chuyện
cũng khá thú vị này. Hôm ông Tương Lai được chỉ định cùng ông Đỗ Hoài Nam đến
trình bày với Tổng Bí thư Đỗ Mười với Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban soạn thảo
Văn Kiện Đại hội 8 về kinh tế và xã hội, tôi ngồi dãy ghế của chuyên viên phía
sau bên cạnh Nguyễn Phú Trọng, Phó Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản. Khi nghe
Tương Lai cứ hồn nhiên cãi lại Tổng Bí thư lúc ông Mười bực mình về
những con số và nhận định về đời sống của nông dân và bối cảnh nông thôn mà ông
cho là không đúng, Nguyễn Phú Trọng ghé tai tôi : “này ông xem, tay này đang báo cáo với Tổng bí thư và Bộ Chính trị mà cứ
thao thao bất tuyệt cứ như trình bày trước hội đồng khoa học của hắn ta không bằng”!
Mọi người lại một lần nữa cười phá lên. Ai đó đế vào “Sao lại có thằng hỏi một câu ngu vậy. Thế là cứ phải triền miên dạ thưa
anh, báo cáo anh, đúng là anh thật sáng suốt ạ… hay sao?”.
Nhưng ai đó bình một câu chát chúa mà thật
thâm trầm rất chi là “đúng quy luật”
: “Thôi, tôi xin can các ông. Các ông nhớ
cho rằng, rồi những người mà các ông vừa hài hước phê phán ấy, họ sẽ ngồi trên
đầu các ông bây giờ đấy. Cứ liệu liệu, đừng có giỡn nhá”! Tôi ngồi lặng đi,
đưa tay cởi bớt mấy cái cúc áo khoác ngoài cho đỡ ngột ngạt. Cái lạnh Sa Pa
không đẩy được cái nóng bừng bừng trong đầu tôi. Một lần nữa lại cứ muốn nối tiếp
câu hát của những anh lính trẻ đồn biên phòng từng lãng đãng trong trĩu nặng
sương chiều trên thung lũng dọc cung đường Mã Pì lèng :
“Để tình yêu xay mòn thành đá cuội
Xin úp mặt bùi
ngùi
Từng ngày qua mải
ngóng tin vui”.
Vậy là cứ từng ngày mỏi ngóng tin vui? Cuộc đời đâu thiếu những tin vui. Tin vui bật
lên từ cuộc sống lam lũ nhẫn nại của những con người không cam chịu số phận cố
tìm đường sống. Từng mảng sống gọi dậy sức quật khởi, sáng tạo của bao người thật
đẹp, thật đáng khâm phục. Khốn nỗi vẫn cứ phải căng đầu ra mà cố tìm thấy những
sự thật thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và trăn trở tìm tòi, loại bỏ những trò đánh
bóng mạ kền của một thứ “nói vậy mà không phải vậy” lừa mỵ bịp bợm của một bộ
máy tuyên truyền quá lố.
Hãy chỉ nói đến một sự kiện giật gân mà
mấy ngày rồi báo, đài dồn dập đưa tin về sân bay Vân Đồn. Một câu hỏi nóng bỏng
trên mạng: “Vân Đồn. Đến Vân Đồn làm gì”
: Một cái sân bay không
và chưa bao giờ là yếu tố để phát triển Công nghiệp không khói. Huống chi –
hãy tự hỏi mình – chả có lý do gì để bạn đến Vân Đồn ngay cả khi có sân bay,
trừ phi bạn có tiền và không biết dùng làm gì. Và, khoảng cách từ Cát Bi tới
Vân Đồn chỉ 45km. Tại sao phải có thêm một sân bay khi đã có một sân bay cách
đó 45km xe hơi và gần như 0km đường bay? Hãy hỏi Luật Đặc khu”! Câu hỏi ấy chẳng ai giải đáp cả. Mà giải đáp sao nổi, nên giải
đáp mà làm gì. Cứ theo chiến
thuật “cả vú lấp miệng em”, hình ảnh
đưa lên tivi cứ thật mùi mẫn, báo chí nhà nước cứ gõ trống khua chiêng thật xôm
trò là xong, như đã từng. Chỉ một ví dụ đã thấy quá đủ, viết chi cho dài dòng nữa!
Nhưng chẳng nhẽ gác bút?
Dù sao thì đốt lên một que diêm để le lói chút ánh lửa còn hơn
co mình lặng yên trong bóng tối? May quá vừa có tấm lịch tranh của Trịnh Công
Sơn mà Trịnh Vĩnh Trinh vừa đem đến, bèn vội treo lên giữa phòng với nét chữ của
Sơn :
“Sự thăng trầm, con nước
ròng con nước lên, sự đầy vơi của mỗi con số trên tờ lịch của mỗi ngày dù sao
cũng cho ta một an ủi sau cùng: là có một thời ta đã sống với đầy đủ những buồn
vui”
Sài Gòn ngày 31.12.2018