Chuyên gia kinh
tế Phạm Chi Lan : "Lo tình trạng nền kinh tế nước ta bị lệ thuộc khá nặng nề vào Trung Quốc,
những mối lo về an ninh-quốc phòng, tình hình ở Biển Đông… khiến cho không một
người Việt Nam yêu nước nào không cảnh giác, lo lắng trước bất cứ động thái nào
mới trong quan hệ Việt-Trung có thể gây phương hại cho chúng ta."
Bà Phạm Chi Lan |
Sau khi Thông tư 19/2018/TT-NHNN ban hành đã thu hút sự quan tâm của dư luận. Để làm rõ một số vấn đề dư luận quan tâm, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với bà Phạm Chi Lan - chuyên gia kinh tế.
Bà đánh giá thế nào về việc ban hành Thông tư 19 vào thời điểm hiện nay?
- Những năm gần đây, các văn bản pháp quy về hoạt động kinh tế ở nước ta
được ban hành rất nhiều, tôi không thể theo dõi xuể. Ngân hàng không phải là
lĩnh vực chuyên môn của tôi, nên tôi ít quan tâm. Tuy nhiên, sau khi Thông tư
19 được Ngân hàng Nhà nước ban hành ngày 28/8 vừa qua, có nhiều ý kiến thể hiện
sự lo ngại của một số chuyên gia kinh tế và công chúng trong xã hội, nên từ đó
tôi mới lo lắng và quan tâm tìm hiểu về Thông tư này.
Đọc kỹ Thông tư 19 và các văn bản pháp quy mà trên cơ sở đó Thông tư này ra
đời, tôi hiểu ra và trút bỏ được những nỗi lo ban đầu.
Trước hết, Luật các tổ chức tín dụng, Pháp lệnh Ngoại hối hiện hành đều khẳng
định rõ nguyên tắc bất di bất dịch là trên lãnh thổ Việt Nam, đồng tiền Việt
Nam là đồng tiền duy nhất được lưu hành. Đó cũng là tinh thần của Hiến pháp
nước ta, và là nguyên tắc chủ quyền của mọi quốc gia trên thế giới. Các ngoại
tệ có thể được sử dụng làm phương tiện giao dịch, thanh toán trong các giao
dịch dân sự, nhưng đều phải qua hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng được
phép giao dịch ngoại hối, và chịu sự giám sát, kiểm soát của Nhà nước. Riêng
với 3 nước có chung biên giới Căm-pu-chia, Lào, Trung Quốc, giữa nước ta với
các nước này đã có những hiệp định thương mại quy định về thương mại biên giới
cho phép sử dụng đồng tiền của cả hai bên trong những giao dịch tại biên giới
theo các thiết chế chặt chẽ, và đã được thực thi từ năm 2004.
Thông tư 19 tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của Luật các tổ chức tín dụng,
Pháp lệnh Ngoại hối, và được thiết kế để các giao dịch thương mại biên giới
Việt-Trung, dù được tạo thuận lợi bằng việc được sử dụng cả hai đồng tiền VND
và CNY, cũng chỉ trong phạm vi rất hạn chế về đối tượng, về địa lý và phải thực
hiện quy định thông qua hệ thống ngân hàng, kể cả đối với giao dịch tiền mặt
(trong thời hạn 07 ngày).
Về đối tượng của Thông tư, Luật Quản lý Ngoại thương ban hành năm 2017 có
mục 7 (gồm 3 Điều 53, 54, 55) về hoạt động thương mại biên giới, cùng Nghị định
số 14/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết hoạt
động thương mại biên giới đã quy định rõ ràng, chặt chẽ thế nào là hoạt động
thương mại biên giới; thế nào là thương nhân và cư dân tham gia hoạt động
thương mại biên giới; những địa bàn như thế nào thì được coi là biên giới, chợ
biên giới; danh mục hàng hóa, dịch vụ trao đổi ở đó được xác định như thế nào…
Có nghĩa là đối tượng của Thông tư 19 đã được khoanh rõ qua Luật và Nghị định
nói trên, cùng các văn bản pháp quy liên quan khác (như Luật Biên giới, Luật Hộ
khẩu…), để giới hạn phạm vi áp dụng về con người, địa bàn, hàng hóa, phương
thức kinh doanh, cách thức thanh toán…theo các quy định về thương mại biên
giới, đi đôi với các công cụ giám sát của nhiều cơ quan nhà nước liên quan.
Và do vậy, Thông tư 19 theo đúng luật pháp hiện hành sẽ chỉ được áp dụng
trong phạm vi những giới hạn này thôi. Quy mô giao dịch tiền tệ và phạm vi ảnh
hưởng của nó sẽ không rộng lớn như nhiều người lo ngại. Ngay trong Thông tư 19,
các quy định về thanh toán qua ngân hàng, giao dịch tiền mặt …cho thương nhân
và cư dân cả hai bên biên giới cũng được đưa ra cụ thể, chi tiết, khá chặt về
pháp lý để nhà nước có thể giám sát, kiểm soát được cả về giao dịch thương mại
lẫn việc thanh toán và giao dịch tiền tệ giữa hai bên.
Thông tư quy định rõ đối tượng và phạm vi điều chỉnh là thương nhân và cư
dân biên giới có hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ qua biên giới
tại khu vực biên giới của 7 tỉnh giáp biên giới Trung Quốc,vậy vì sao lại có
những ý kiến lo ngại đối tượng áp dụng Thông tư 19?
Lúc thoạt đọc câu “Đồng tiền thanh toán trong hoạt động mua bán, trao đổi
hàng hóa, dịch vụ qua biên giới Việt Nam - Trung Quốc của thương nhân là ngoại
tệ tự do chuyển đổi, VND hoặc CNY” trong Thông tư, tôi cũng giật mình như nhiều
người khác. Khi đọc kỹ các quy định cụ thể trong những phần tiếp theo của Thông
tư, và cả trong các văn bản pháp quy khác như đã kể trên, tôi mới hiểu rõ hơn
về mục tiêu, nội hàm, phạm vi áp dụng của Thông tư, về các công cụ quản lý của
nhà nước trong lĩnh vực này, và từ đó mới yên tâm hơn.
Sự giật mình lo ngại của tôi cũng như nhiều người khác xuất phát từ nhiều
điều.
Thứ nhất, nhiều năm nay nước ta đã bị nhập siêu ngày càng nặng nề từ Trung
Quốc, mà ngay quy mô nhập siêu chúng ta cũng chưa đánh giá được thật đầy đủ
(thể hiện qua chênh lệch lớn giữa số liệu thống kê do VN và Trung Quốc công
bố). Thứ hai, thương mại biên giới, hay biên mậu, giữa ta với Trung Quốc diễn
ra nhiều năm nay, với quy mô ngày càng lớn, rất phức tạp, khó kiểm soát; hàng
hóa Trung Quốc qua đường biên mậu đã len vào từng ngõ hẻm trên mọi miền đất
nước, gây nhiều lo ngại cho cả các nhà sản xuất lẫn người tiêu dùng nước ta,
chưa kể thất thu thuế cho nhà nước do buôn lậu. Hay thông qua kênh du lịch,
nhiều người Trung Quốc đã vào nước ta kinh doanh, làm lao động, tiêu tiền của
họ trong các giao dịch với nhau…Thứ ba, gần đây công luận hết sức lo lắng về dự
luật đặc khu kinh tế (mà Quốc hội đã sáng suốt hoãn việc thông qua để nghe thêm
ý kiến nhân dân), về việc Trung Quốc thúc giục xây dựng các khu kinh tế-thương
mại biên giới, về tác động tiêu cực nước ta có thể hứng chịu do chiến tranh
thương mại Mỹ-Trung…
Lo tình trạng nền kinh tế nước ta bị lệ thuộc khá nặng nề vào Trung Quốc,
những mối lo về an ninh-quốc phòng, tình hình ở Biển Đông… khiến cho không một
người Việt Nam yêu nước nào không cảnh giác, lo lắng trước bất cứ động thái nào
mới trong quan hệ Việt-Trung có thể gây phương hại cho chúng ta.
Thông tư 19 ra đời trong bối cảnh đó, cùng với sự “bất đối xứng về thông
tin” giữa nhà nước với dân, rồi việc những giải trình cần thiết về Thông tư đến
với dân chậm hơn so với tốc độ lan truyền của văn bản khi chưa có sự giải thích
và hiểu đầy đủ sẽ gây ra một số phản ứng. Sự “bất đối xứng về thông tin” thể
hiện rõ nhất trong việc nước ta cùng với các nước láng giềng Căm-pu-chia, Lào,
Trung Quốc đã cho phép thực hiện thanh toán các giao dịch thương mại biên giới
bằng đồng tiền của hai bên từ năm 2004, nhưng đa số người dân đâu có biết!
Thông tư 19 nói riêng và quy trình xây dựng các văn bản pháp quy liên quan đến
lĩnh vực kinh tế nói chung nên có sự trao đổi trước với các chuyên gia kinh tế,
pháp luật… để họ hiểu rõ cơ sở pháp lý và các quy định then chốt, đặc biệt là
phạm vi áp dụng và các công cụ giám sát của Thông tư này, thì sẽ đỡ đi những lo
lắng do cách hiểu và diễn giải khác về Thông tư này.
Bà có khuyến cáo gì về các cơ chế giám sát để thực thi tốt Thông tư
này?
- Điều lo ngại vẫn còn trong tôi là liệu các cơ quan nhà nước có thực hiện
được nghiêm túc, đồng bộ những quy định trong Luật, Nghị định và Thông tư nói
trên không. Thật tình lâu nay quan sát các hoạt động kinh tế ở nước ta, tôi
thấy nhiều khi có được văn bản pháp quy tốt đã khó, nhưng thực thi tốt các văn
bản đó còn khó hơn nhiều. Không thể phủ nhận thực tế đang gây đau đầu cho chúng
ta hiện nay, là không ít người trong bộ máy cán bộ nhà nước còn khá hạn chế về
trình độ, năng lực, tinh thần trách nhiệm, đạo đức công vụ, cũng như về sự phối
hợp công tác với nhau. Sự hiểu biết và tuân thủ pháp luật trong người dân của
chúng ta cũng có những hạn chế, vì nhiều khi ngay cả tiếp cận thông tin pháp
luật đối với họ cũng khó, như nhiều điều tra đã cho thấy. Chính thực tế này
khiến cho tính khả thi và hiệu lực, hiệu quả của nhiều quy định pháp luật của
nước ta kém “thiêng” đi, trong khi các rủi ro có thể tăng lên.
Tôi rất lo nếu những người có trách nhiệm thi hành không thực hiện đầy đủ,
nghiêm túc nhiệm vụ, chức trách của họ, thì các quy định có thể sẽ bị những kẻ
gian ở cả hai bên biên giới lợi dụng, gây phương hại cho nền kinh tế của ta.
Trong Thông tư không đưa ra quy định chế tài vì đã có quy định ở các văn bản
pháp luật khác. Nhưng tôi đề nghị vẫn nên làm rõ chế tài đối với cả người nhà
nước và người dân trong việc thực hiện Thông tư này.
Tôi cũng mong nhà nước tạo thêm kênh giám sát của xã hội, của nhân dân ở
các tỉnh biên giới cũng như ở các địa phương khác, để người dân có thể phản ảnh
kịp thời và giúp nhà nước ngăn chặn những diễn biến bất lợi có thể xảy ra.
Điều quan trọng nhất là mọi việc phải được thực hiện và giám sát, kiểm soát
nghiêm minh đúng như các quy định. Thực sự phải tăng cường sự hiểu biết, ý thức
trách nhiệm, năng lực làm việc và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan và nhân
sự có trách nhiệm quản lý nhà nước trong các lĩnh vực liên quan, đặc biệt là
tại các địa phương. Và Thông tư cần được phổ biến, giải thích, hướng dẫn tường
tận cho thương nhân và cư dân các vùng biên giới để họ hiểu rõ và tự giác thi
hành tốt.
Thúy Linh
http://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/tai-chinh/mot-cach-nhin-ve-thong-tu-19-cua-nhnn-475030.html