Thủ Thiêm,
Văn Giang, Dương Nội, Đồng Tâm... và rất nhiều nơi khác đã tạo nên một tầng lớp
mới của xã hội, gọi là “dân oan”. Mỗi năm, các cơ quan nhà nước (NN) nhận được
khoảng 20.000 đơn thư khiếu kiện, trong đó có 70 đến 80% là đất đai.
Có lẽ, sự
kiện Thủ Thiêm gợi ý những người có trách nhiệm cho nghiên cứu thấu đáo hơn về
vấn đề đất đai.
Thông qua
đất đai để tham nhũng là phổ biến nhất, tràn lan nhất, khủng khiếp nhất. Đảng
đang chống tham nhũng, lấy lại lòng tin của nhân dân mà không giải quyết vấn đề
đất đai cả về lý luận và thực tiễn thì khó đạt được điều mong muốn.
Tôi viết về
nó như một góp ý có trách nhiệm.
Cuối cuộc
kháng chiến chống Pháp (1946-1954), Đảng và Nhà nước làm Cải cách Ruộng đất với
khẩu hiệu “Người cày có ruộng”, lấy đất công điền, tịch thu ruộng đất của địa
chủ, cường hào chia cho dân nghèo. Việc này được Đảng nâng lên tầm lý luận là:
cuộc cách mạng dân chủ (CMDC).
Lứa chúng
tôi và nhiều lứa khác được dạy dỗ: cách mạng dân tộc là giải phóng đất nước
khỏi ngoại xâm và cách mạng dân chủ là người cày có ruộng (không phải khái niệm
dân chủ như hiện nay - xin người đọc đừng hiểu lầm).
Tổng quan
lại, cuộc CMDC của nước ta đã đi một vòng tròn và khó giải thích về lý luận. Từ
tịch thu ruộng của địa chủ chia cho dân nghèo đến thu hồi ruộng của dân để giao
cho tầng lớp tư sản mới (các chủ doanh nghiệp).
Hành trình
đó được khép kín như sau:
* 1958-1960,
hợp tác hoá nông nghiệp, người dân góp ruộng thuộc sở hữu của mình vào làm ăn
tập thể. Ban đầu vẫn được chia hoa lợi. Nhưng tâm lý đã chuyển dần sang là đất
của hợp tác xã (HTX).
* 1980 thay
đổi Hiến pháp, chỉ một nhóm từ “đất đai thuộc sở hữu nhà nước”, tự dưng dân
toàn quốc mất đất mà NN không thông qua trưng thu, trưng mua. Không nơi đâu có
sự phản đối vì hai lý: 1. Tuyệt đối tin vào Đảng và Nhà nước, và 2. Tâm lý
không phải đất của mình mà là của HTX.
* Trước đó,
1979, toàn dân đói kém khi mọi nguồn viện trợ bị cắt, Đảng ban hành NQ6 với
đường lối sản xuất lương thực-thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Các cơ
quan Trung ương cũng tìm đất phá hoang để sản xuất lương thực. Ngoài làm cho
HTX, các xã viên được khai hoang mọi diện tích làm kinh tế riêng. Bắt đầu xuất
hiện các diện tích đất tư.
* 1981,
Chính phủ ban hành QĐ201Ttg, văn bản quản lý đất đai đầu tiên cho cả nước với
tư tưởng đất đai là tư liệu sản xuất thuộc sở hữu nhà nước nên: “cấm mọi hành
vi mua bán đất đai”. Đất khai hoang nói ở 1979 không đưa vào diện quản lý.
* 1986, khi
nền kinh tế suy sụp, dân đói triền miên, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 100
cho khoán thử và sau đó Trung ương ban hành NQTW10 cho khoán ruộng trong toàn
quốc, đất đai của HTX nhưng giao khoán cho từng hộ (sau này gọi là Khoán 10).
* 1987, tư
tưởng của Đảng và Nhà nước là biến ruộng khoán sẽ chuyển từ HTX sang cho hộ
nông dân nên Quốc hội xây dựng Luật Đất đai để áp dụng từ 1988. Để có bản đồ
làm cơ sở quản lý, Chính phủ cho đo đạc và xây dựng bản đồ, sổ mục kê theo
QĐ299. Sau này giải quyết tranh chấp đất NN căn cứ vào Bản đồ 299 là nguồn gốc
từ đây. Luật 1987 đã bắt đầu có quy định về NN thu hồi đất của nông dân nhưng:
thu hồi đất loại nào (loại theo chế định kiểu nông nghiệp, thổ cư, chuyên dùng
chứ không phải hạng điền) thì trả lại đất ấy và trả đủ diện tích đã thu hồi.
Không biết tại sao luật này không áp dụng, đến nay không ai nhắc đến, như nó
chưa từng có.
* 1993 Quốc
hội làm luật khác, luật này có hiệu lực từ 15/10/1993. Trong đó có mấy điểm sau
đây cần chú ý: cấp đất, thu hồi đất phải trên quy hoạch, kế hoạch; Thủ tướng
cấp thu hồi từ 1 ha trở lên, Chủ tịch tỉnh dưới 1 ha; Chỉ thu hồi đất có đền bù
cho 4 loại công trình: an ninh, quốc phòng, vì lợi ích quốc gia, vì lợi ích
công cộng; các doanh nghiệp chỉ được thuê đất (NĐ18CP). Cũng cần nói thêm, hồi
đó ông Kiệt làm Thủ tướng, tư tưởng pháp quyền trong đất đai rất rõ. Ông còn có
văn bản pháp luật hẳn hoi về đất doanh trại, gia binh, đất làm kinh tế quân đội
không thuộc đất quốc phòng... Luật này có nhược điểm là khó khăn trong việc
chuyển đất NN sang đất làm kinh tế khác như khu công nghiệp, nhà máy.
* 2003, Luật
Đất đai sửa đổi bổ sung có một điều tiến bộ là được thu hồi đất vì mục đích
kinh tế, nhưng người được hưởng lợi phải thương lượng với người đang sử dụng
đất. Nếu điều này được áp dụng trên hai nguyên tắc là giá thị trường hoặc góp
đất quy thành cổ phần thì đất nước không xuất hiện dân oan. Vấn đề không nằm ở
luật mà ở áp dụng luật: chính quyền dùng sức mạnh Nhà nước, dùng vũ trang để
đồng hành với doanh nghiệp ép dân thu hồi đất tạo ra điều vô lý: doanh nghiệp
hưởng lợi còn chính quyền nhân dân thì đàn áp nhân dân tạo ra mâu thuẫn, kể cả
đổ máu như Văn Giang, Đồng Tâm, tù đày như Dương Nội, mâu thuẫn kéo dài như Thủ
Thiêm... Nếu dừng tại đây và điều chỉnh hai điều như đã nói thì mâu thuẫn được
khu trú. Vì sao chính quyền bạo tay với dân, ai cũng đoán ra.
*2013, Quốc
hội tiến thêm một bước nữa là không cần doanh nghiệp thoả thuận với người sử
dụng đất mà NN đứng ra thu hồi, giải phóng mặt bằng và từ luật 2003 cho chủ
tịch cấp huyện có quyền cấp đất thu hồi đất với hạn mức nhất định thì:
Chúng ta đã
đi một vòng khép kín từ tước đoạt đất địa chủ chia cho dân cày đến thu hồi đất
đai từ nông dân để giao cho tầng lớp tư sản mới.
Lưu ý thêm
rằng, dù từ khi chia ruộng Cải cách Ruộng đất đến góp ruộng vào HTX và các luật
sau này là cơ sở cấp giấy tờ về đất, nhưng từ 1958, những tờ giấy cấp chủ quyền
về đất cuối cùng của thời sở hữu đất đã cách đây 60 năm còn sang thời dân chỉ
còn quyền sử dụng vẫn chưa xong cấp giấy tờ. Việc chậm cấp giấy tờ là cửa ăn
bẩn của rất nhiều quan chức.
Status này
đã quá dài nên phần tham nhũng và hư hỏng từng mảng từ đất đai sẽ viết vào dịp
gần đây.
T.Q.V.