Có đến 90%
khả năng là bạn chưa biết gì về câu chuyện lịch sử này. Bởi vì...những bậc trí
thức, học giả, những nhà nghiên cứu và giảng dạy lịch sử ở VN cũng không biết
khi trả lời câu hỏi:
"Trước thế kỷ 20, cuộc xâm lược cuối cùng của Trung Quốc vào Việt Nam là cuộc xâm lược nào? Trong sự kiện ấy, ai là tổng chỉ huy của quân đội Trung Quốc? Ai là người đánh bại đội quân xâm lược đó?
Hầu hết người được hỏi đều trả lời: Đó là cuộc xâm lược của Mãn Thanh thời Hoàng đế Càn Long vào năm 1789, chỉ huy đội quân xâm lược là Tôn Sỹ Nghị, người đánh bại đội quân xâm lược đó là Hoàng đế Quang Trung.
"Trước thế kỷ 20, cuộc xâm lược cuối cùng của Trung Quốc vào Việt Nam là cuộc xâm lược nào? Trong sự kiện ấy, ai là tổng chỉ huy của quân đội Trung Quốc? Ai là người đánh bại đội quân xâm lược đó?
Hầu hết người được hỏi đều trả lời: Đó là cuộc xâm lược của Mãn Thanh thời Hoàng đế Càn Long vào năm 1789, chỉ huy đội quân xâm lược là Tôn Sỹ Nghị, người đánh bại đội quân xâm lược đó là Hoàng đế Quang Trung.
Chỉ có một
học giả duy nhất trả lời đúng: Cuộc xâm lược cuối cùng là vào thế kỷ 19, thời
Từ Hy thái hậu của Mãn Thanh, chỉ huy đội quân xâm lược là Phùng Tử Tài, còn
người đánh bại cuộc xâm lược đó của Trung Quốc là… thực dân Pháp.
Tại sao hầu
hết những người am tường sách vở ở Việt Nam mà tôi có dịp được hỏi lại hoàn
toàn không nhớ gì về cuộc xâm lược trong thế kỷ 19 này của Trung Quốc?
Vì nó hoàn
toàn bị xoá khỏi lịch sử. Nó không được dạy trong chương trình sử ở cả bậc đại
học lẫn trung học.
Cuối thế kỷ
19, Việt Nam đối diện với hai siêu cường, Pháp và Mãn Thanh, một bên đến từ
phương Tây, mang theo nền văn minh của chủ nghĩa tư bản, một bên là thiên triều
ngàn năm vẫn đang chìm đắm trong ảo giác mình là trung tâm của thế giới.
Ngay sau khi
Pháp lấy Nam Kỳ, Mãn Thanh cũng lập kế hoạch đánh chiếm miền Bắc.
Mãn Thanh
quyết tâm đánh chiếm Bắc Kỳ vì Việt Nam đã suy yếu, và nhằm bảo vệ mô hình
thiên triều - chư hầu ngàn năm. Pháp thì quyết lấy nốt phần còn lại. Hai bên
tất yếu bước vào một cuộc đụng đầu lịch sử, dần dần đi đến chỗ đánh nhau ác
liệt ngay trên lãnh thổ Việt Nam, qua một loạt trận đánh như Sơn Tây, Bắc Ninh,
Hưng Hóa, Tuyên Quang năm 1883.
Mãn Thanh đã
quyết tâm đến mức dốc tổng lực đánh bại Pháp trên đất liền, chiếm toàn bộ vùng
trung du phía Bắc, áp sát khu vực đồng bằng sông Hồng. Thủ tướng Pháp phải từ
chức. Nhưng quân Pháp lật ngược thế cờ bằng cách mở ra chiến trường trên biển,
đánh chiếm đảo Đài Loan và huỷ diệt Bắc Dương hạm đội của Mãn Thanh ở Phúc
Châu.
Mãn Thanh ban đầu thấy chỉ khả thi khi đặt mục tiêu giữ lại vùng Bắc Kỳ, nhưng khi phải ký vào Hiệp ước Thiên Tân 1885, Mãn Thanh buộc chấp nhận mất toàn bộ chư hầu Việt Nam.
Mãn Thanh ban đầu thấy chỉ khả thi khi đặt mục tiêu giữ lại vùng Bắc Kỳ, nhưng khi phải ký vào Hiệp ước Thiên Tân 1885, Mãn Thanh buộc chấp nhận mất toàn bộ chư hầu Việt Nam.
Hiệp ước
Thiên Tân 1885 giữa Pháp và Mãn Thanh đã tạo ra một bước ngoặt lịch sử cho cả
Mãn Thanh và Việt Nam.
Nếu như việc phải nhượng địa Hong Kong cho nước Anh chỉ khiến Mãn Thanh thức tỉnh về khả năng kỹ thuật của phương Tây nhưng vẫn giữ vững niềm tin vào hệ thống thiên triều - chư hầu, thì đến khi mất chư hầu Việt Nam vào tay Pháp, ý thức hệ và cấu trúc thiên triều - chư hầu của họ bị đánh tận gốc rễ.
Việc Mãn Thanh không thể giữ Việt Nam trong cấu trúc thiên triều - chư hầu đã khiến Nhật Bản, lúc này đã trở thành một cường quốc, quyết định giành lấy một chư hầu khác của Mãn Thanh là Triều Tiên. Mãn Thanh tiếp tục mất Triều Tiên trong cuộc chiến Nhật Thanh 10 năm sau đó.
Nếu như việc phải nhượng địa Hong Kong cho nước Anh chỉ khiến Mãn Thanh thức tỉnh về khả năng kỹ thuật của phương Tây nhưng vẫn giữ vững niềm tin vào hệ thống thiên triều - chư hầu, thì đến khi mất chư hầu Việt Nam vào tay Pháp, ý thức hệ và cấu trúc thiên triều - chư hầu của họ bị đánh tận gốc rễ.
Việc Mãn Thanh không thể giữ Việt Nam trong cấu trúc thiên triều - chư hầu đã khiến Nhật Bản, lúc này đã trở thành một cường quốc, quyết định giành lấy một chư hầu khác của Mãn Thanh là Triều Tiên. Mãn Thanh tiếp tục mất Triều Tiên trong cuộc chiến Nhật Thanh 10 năm sau đó.
Từ đó, việc
cấu trúc và ý thức hệ thiên triều - chư hầu bị sụp đổ toàn diện trong thế kỷ 19
trở thành một trong những nội dung chủ yếu của ý niệm “thế kỷ ô nhục” trong chủ
nghĩa dân tộc Trung Hoa hiện đại.
Còn ở Việt
Nam, do cuộc chiến Pháp - Thanh ảnh hưởng quá lớn đến số phận Việt Nam, nên dù
xoá cuộc chiến này khỏi sách giáo khoa sử cho học sinh phổ thông, ngày nay, các
sử gia ở Hà Nội vẫn phải dạy học sinh về một số điều liên quan đến cuộc chiến
ấy: đội quân Cờ Đen của tướng Mãn Thanh là Lưu Vĩnh Phúc và Hiệp ước Thiên Tân
1885.
Đó là sự
kiện không thể không dạy. Quân đội Lưu Vĩnh Phúc của Mãn Thanh đã lập hai chiến
công là giết hai chỉ huy của Pháp trong hai trận ở Cầu Giấy, còn Hiệp ước Pháp
- Thanh 1885 thì mở ra trang sử mới của Việt Nam.
Nhưng, nói
về Lưu Vĩnh Phúc và Hiệp ước Pháp - Thanh mà lại không nói gì về cuộc chiến
tranh quyết định quyền kiểm soát Việt Nam của hai nước Pháp - Thanh này, các sử
gia của chúng ta đã cho học sinh phổ thông học một bức tranh lịch sử cận đại
theo kiểu… Pháp xâm lược Việt Nam, rồi đột nhiên Mãn Thanh xuất hiện ký một
hiệp ước quyết định số phận chúng ta.
Lưu Vĩnh
Phúc vốn là quân Thái Bình Thiên Quốc, bị triều đình Mãn Thanh đánh bại, chạy
sang Việt Nam làm thổ phỉ, gây ra vô số tội ác cho dân chúng. Triều đình Huế
không thể đánh dẹp, phải nhờ Mãn Thanh đánh giúp. Nhưng khi triều đình Mãn
Thanh cử quân đội vào Việt Nam để đụng đầu với Pháp, quân đội triều đình Mãn
Thanh đã thâu nạp luôn đội quân thổ phỉ Lưu Vĩnh Phúc, ban cho phẩm hàm triều
đình, thay vì tiêu diệt nó.
Sách giáo
khoa sử lớp 7 hiện nay ở Việt Nam dùng khái niệm “quân ta” để gọi Lưu Vĩnh
Phúc. Lối giáo dục này bắt đầu từ hơn 70 năm trước, khi sử gia Trần Văn Giàu và
Trần Huy Liệu ở Hà Nội bắt đầu xây dựng bức tranh “lịch sử cận đại”. Lưu Vĩnh
Phúc có tờ Hịch kêu gọi binh lính của mình đánh Pháp, trong đó, đoạn đầu tiên,
ông nói rõ mục đích của cuộc chiến: "Việt Nam là chư hầu của Mãn Thanh,
nay Pháp sang chiếm mất chư hầu của ta, ta và Pháp là kẻ thù không đội trời
chung".
Sử gia Trần
Văn Giàu làm gì khi trích dẫn bài Hịch này vào bộ sử “Bắc kỳ kháng Pháp”? Ông
cắt bỏ đoạn mở đầu thể hiện rõ ý thức hệ và mục đích chiến tranh của họ Lưu đó
đi. Nhờ thế, sử gia họ Trần dễ dàng gắn huân chương “tình hữu nghị chiến đấu
của hai dân tộc Việt Trung” cho Lưu Vĩnh Phúc.
Xoá bỏ cuộc
xâm lược của Mãn Thanh và cuộc chiến Pháp-Thanh vào thế kỷ 19, các sử gia miền
Bắc xây dựng thế kỷ 19 theo mô hình phân đôi: một bên là thực dân Pháp xâm
lược, nhà Nguyễn hèn nhát hàng giặc, một bên là “dân tộc” anh hùng kháng chiến
chống ngoại xâm.
Trên cái nền
bức tranh phân đôi con người làm hai tuyến, bên trái là “xâm lược phương Tây”
và bên phải là “nhân dân anh hùng”, người ta lần lượt điêu khắc các nhân vật
lịch sử sao cho "ăn khớp" với bức tranh ấy: Alexandre de Rhodes dĩ
nhiên thuộc bên trái bức tranh, phong trào văn thân (vốn không có ý niệm về
lòng ái quốc mà chỉ chống người theo đạo Thiên chúa để bảo vệ hệ thống phong
kiến nơi họ có thể tìm thấy vị trí xã hội của mình) được xếp vào bên phải.
Vẽ bức tranh
thế kỷ 19 theo cách ấy, các sử gia của Viện Sử học ở Hà Nội từ thập niên 1950
dễ dàng tiếp tục vẽ bức tranh của giai đoạn tiếp theo như cách chúng ta thấy
trong các giáo trình “Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam” ngày nay: “nhân dân” tuy
anh hùng nhưng không có đường lối đấu tranh đúng đắn, liên tục thất bại cho đến
khi Đảng Cộng sản ra đời, mang về Việt Nam vũ khí tối tân là con đường cách
mạng vô sản. Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân vật trung tâm của bức tranh. Lịch
sử quốc gia thế kỷ 20 được đồng nhất với lịch sử Đảng.
Cách học ấy
bắt đầu từ giữa thập niên 1950, đến nay đã kéo dài khoảng 4 thế hệ.
Trần Trọng
Kim, người cha của sử học hiện đại Việt Nam, 1883-1953
Cuộc chiến
Pháp -Thanh và sự thất bại của Việt Nam khi bị kẹt giữa hai siêu cường ấy đã
được sử gia hiện đại đầu tiên của Việt Nam, Trần Trọng Kim, phân tích kỹ lưỡng
trong “Việt Nam sử lược”, bộ sách giáo khoa lịch sử đầu tiên của nước Việt Nam,
xuất bản vào 1919-1920. Cuốn sách này đã bị cấm ở miền Bắc sau 1954 và toàn quốc
sau 1975. Nếu chấp nhận phục hồi ký ức về cuộc xâm lược của Mãn Thanh và cuộc
chiến Pháp-Thanh thế kỷ 19, chúng ta sẽ phải chấp nhận bức tranh thế kỷ ấy như
người cha của nền sử học Việt Nam đã khắc họa một cách khách quan: Đó là thế kỷ
mà Việt Nam bị mắc kẹt vào hai gọng kìm Pháp-Thanh, bị giằng xé giữa hai mô
hình “chư hầu của thiên triều phương Bắc” và “thuộc địa của thực dân phương
Tây”, bị buộc phải lựa chọn giữa hai con đường “Tây phương hoá” hay “tiếp tục
nằm trong vòng ảnh hưởng của vùng văn hoá chữ Hán”.
Điều đó có
nghĩa là bức tranh lịch sử từ đầu thế kỷ 20 cũng cần được vẽ lại toàn bộ. Trong
bức tranh này, vị trí của các lực lựợng chính trị, các phong trào xã hội, các
vấn đề thuộc phạm vi tinh thần như lịch sử tư tưởng, văn hoá, văn học nghệ
thuật… cũng sẽ được tái định vị một cách căn bản.
Năm 1987, sử
gia Nhật Bản Tsuboi Yoshiharu xuất bản “Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung
Hoa”, phân tích thế kỷ 19, trọng tâm là thời Tự Đức, như là thời đại Việt Nam
mắc kẹt giữa hai siêu cường. Cuốn sách được các học giả Nguyễn Đình Đầu, Bùi
Trân Phượng, Tăng Văn Hỷ, Vũ Văn Kính dịch ra tiếng Việt và Trần Văn Giàu là
người viết lời giới thiệu. Trần Văn Giàu đã đánh giá cách tiếp cận của Tsuboi
là “mới mẻ” mà “quên” mất rằng, cách hiểu ấy về thế kỷ 19 đã ra đời ngay từ đầu
thế kỷ 20, trước sử gia Nhật Bản ấy đến bảy thập niên, trong “Việt Nam sử
lược”, cuốn sách mà chính các sử gia kiêm chính trị gia ở Hà Nội đã cấm đoán từ
thập niên 1950 để độc quyền một cách kể chuyện lịch sử duy nhất.
Nhận thức về
lịch sử (trả lời câu hỏi “chúng ta đến đây từ đâu và như thế nào?”) và lựa chọn
chính trị (trả lời câu hỏi “chúng ta làm gì bây giờ?”) chỉ là hai mặt của một
tờ giấy. Hiểu theo cách đó, như ta thấy qua câu chuyện phản đối đặt tên đường
cho Alexandre de Rhodes nói trên, những lựa chọn của người Việt Nam hôm nay vẫn
chìm đắm trong một màn sương mù của tư duy được đình hình từ giữa thế kỷ trước
bởi Ban nghiên cứu Văn Sử Địa.
Lãng quên
bài học thất bại khi đối diện yêu cầu lịch sử phải lựa chọn giữa Pháp - Thanh
với tư cách là hai mô hình, hai thế giới, Việt Nam ngày nay tiếp tục đối diện
câu hỏi ấy một lần nữa.