Ngô Nhân Dụng
Một lá thư báo
tử, viết trước đây 43 năm, cho bà quả phụ Ðại Úy Huỳnh Duy Thạch biết tin chồng
bà đã hy sinh vì tổ quốc, bức thư kể lại: “Trong trận hải chiến lịch sử ngăn
diệt quân Trung Cộng xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa, Ðại Úy Thạch và các chiến sĩ
Hải Quân thuộc hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ.10) đã nêu cao tinh thần bất khuất hào
hùng quyết chiến quyết thắng trước kẻ thù chung của dân tộc. Dịp này, Ðại Úy
Thạch chẳng may ngã xuống nhưng gương hy sinh cao cả của đại úy đã như ngôi sao
sáng chói trên vòm trời Hoàng Sa muôn thủa của quê hương.”
Ðề Ðốc Trần Văn
Chơn, tư lệnh Hải Quân gửi bức thư trên tới bà Lê Kim Chiêu ở số 8 Lê Thánh
Tôn, Sài Gòn, ông ca ngợi Ðại Úy Huỳnh Duy Thạch: “Tổ quốc mất một người con
yêu quý trong cuộc chiến hào hùng hiện nay của dân tộc…”
Những lời chia buồn “…thay mặt toàn thể quân nhân Hải Quân các cấp tôi
thành kính nghiêng mình trước vong linh người quá cố và thành thật phân ưu cùng
quý quyến” cũng được gửi tới những chiến sĩ Hải Quân khác bỏ mình ngày 19 Tháng
Giêng, năm 1974.
Sau 43 năm, đọc
lại bức thư của Ðề Ðốc Trần Văn Chơn, một người Việt Nam vẫn rưng rưng tưởng
nhớ và biết ơn những những người con yêu quý của tổ quốc đã hy sinh trong sóng
biển Hoàng Sa năm 1974; nghĩ đến cả những người con yêu quý của tổ quốc đã hy
sinh năm 1988 ở Trường Sa. Ðọc lại những lời lẽ viết theo công thức này chúng
ta vẫn cảm động rơi lệ. Giống như những khẩu hiệu “độc lập, tự do, hòa bình, thịnh
vượng,” vân vân, nói mãi và nghe mãi sẽ trở thành công thức khuôn sáo. Nhưng có
những lúc, gặp đúng hoàn cảnh, chúng ta vẫn nức lòng khi hô to các khẩu hiệu
đó. Chúng ta có thể sống lại mối xúc động của những người đầu tiên hô lên các
tiếng “Tự do!” “Hạnh phúc!” Trên thế giới vẫn có nhiều người sẵn sàng hy sinh
cuộc đời hay mạng sống để thực hiện những lý tưởng chất chứa trong các mỹ từ
đó.
Không biết gia
đình những chiến sĩ Hải Quân Việt Nam bỏ mình trong trận hải chiến 1988, khi
Trung Cộng đánh chiếm đảo Gạc Ma, có nhận được những bức thư tương tự hay
không? Vị tư lệnh Hải Quân năm đó có ca ngợi các liệt sĩ đó “nêu cao tinh thần
bất khuất hào hùng quyết chiến quyết thắng trước kẻ thù chung của dân tộc” như
bức thư của Ðề Ðốc Trần Văn Chơn nói về các chiến sĩ Hoàng Sa hay không? Có tỏ
lòng thương tiếc “tổ quốc mất một người con yêu quý trong cuộc chiến hào hùng
hiện nay của dân tộc…” với gia đình từng tử sĩ hay không?
Ngày nay, thân
nhân của những tử sĩ ở Hoàng Sa và Gạc Ma đã có dịp gặp nhau. Họ có thể cùng
xác định “kẻ thù chung của dân tộc,” của cả hai miền Nam, Bắc Việt Nam vào năm
1974 cũng như năm 1988 là nước nào. Ngày kỷ niệm trận Hoàng Sa năm 1974 nhắc
nhở chúng ta bổn phận bảo vệ tổ quốc. Tưởng nhớ Hoàng Sa 1974 và Gạc Ma 1988,
nhớ những chiến sĩ “như ngôi sao sáng chói trên vòm trời Hoàng Sa, Trường Sa
muôn thủa của quê hương Việt Nam,” chúng ta biết phải đoàn kết mới có thể chống
lại “kẻ thù chung của dân tộc.”
Muốn dân tộc
đoàn kết, trước hết, phải xây dựng một chế độ dân chủ do chính người dân bỏ
phiếu lựa chọn. Chỉ một chính quyền “bởi dân, do dân và vì dân” mới đoàn kết
được tất cả mọi người từ Nam ra Bắc; liên kết với các quốc gia khác trên căn
bản bình đẳng để bảo vệ “vòm trời muôn thủa của quê hương;” xây dựng giáo dục,
văn hóa, phát triển kinh tế, mở đầu một cuộc phục hưng đất nước sau khi bị tàn
phá vì nội chiến và ngoại xâm, và bị kìm kẹp trong một chế độ độc tài vừa bất
lực vừa lạc hậu.
Một người mới
nhắc nhở dân tộc Việt Nam về triển vọng phục hưng là Ngoại Trưởng Mỹ John
Kerry. Trong bài nói chuyện tại Trường Ðại Học Sư Phạm Kỹ Thuật ở Sài Gòn, ông
Kerry nói: “Tại Văn Miếu Hà Nội, có bia khắc câu này: Trời đã chuyển tới một
thời kỳ phục hưng” (Nguyên văn: On Hanoi’s Temple of Literature, there is an
inscription that reads, “Heaven has ushered in an era of renewal”).
Nhiều người
không biết ông ông Kerry nhặt đâu ra câu trích dẫn đó! Một người Hà Nội là bạn
Tự Anh đi tìm, cho biết chính người phiên dịch cho ông Kerry cũng không rõ gốc
câu này ở đâu ra. Ðọc nguyên văn rồi, bạn Tự Anh “cũng chẳng biết tiếng Việt là
gì,” nhưng đã tìm ra nguyên văn chữ Hán Việt, gồm hai vế: “Thiên khởi trung
hưng, thế khai văn vận.” Nghĩa là Trời bắt đầu cuộc trung hưng – Ðời mở cho
cuộc cai trị bằng văn!
Nhưng câu đối
này, của ai và viết trong tác phẩm nào? Bạn Tự Anh than: “Họ mang câu chữ của
mình ra đố mình mà mình lại mù tịt thì mất thể diện của người Việt Nam mình,
xấu hổ quá!” Vì vậy, ngày 13 Tháng Giêng, 2017, Tự Anh viết thư thỉnh ý một
“bậc đại thụ về Hán Nôm” là Giáo Sư Nguyễn Huệ Chi, ở Hà Nội.
Giáo Sư Nguyễn
Huệ Chi cũng nghĩ “…ông ngoại trưởng đánh đố đây!” Chắc các ông lãnh đạo chính
quyền thuộc loại “ma dze in Việt Nam” cũng không biết đó là một thách đố! Ông
Nguyễn Huệ Chi đã hỏi ý kiến các môn sinh cũ, “Nhưng các cô cậu học trò của tôi
đều chẳng ai biết cả. Thế là tự mình phải mầy mò!”
Nguyễn Huệ Chi
đoán rằng câu này không lấy trong văn học Trung Quốc, bởi vì, “Ngoại Trưởng
John Kerry đã trích dẫn trong bài nói của ông ta thì chắc là phải trích của
người Việt Nam, chứ ai lại đem câu văn của Ðại Hán mà mình đang chống chúng nó
ra để giảng thuyết cho người Việt?”
Ông kết luận
rằng “đây phải là một bài văn khoa cử, và phải được làm vào đời Lê trung hưng
vì nội dung có nói đến ‘Trời mở ra cuộc trung hưng.’ John Kerry nói câu này
được ghi khắc tại ‘Hanoi’s Temple of Literature’ tức là Văn Miếu Hà Nội, mà ở
đó thì đầy những bia tiến sĩ.” Do đó, Giáo Sư Nguyễn Huệ Chi đã tìm thấy trong
bài văn bia số 21, Quang Hưng ngũ thập niên Nhâm Thìn khoa tiến sĩ
đề danh ký, 光 興 十五 年 壬 辰 科 進 士 題 記 (bia khắc tên các vị đỗ tiến sĩ khoa Nhâm Thìn niên hiệu Quang
Hưng thứ 15 – 1592) hai câu mở đầu là: Thiên khởi
trung hưng – Thế khai văn
vận – 天 起 中 興 / 世 開 文 運, nghĩa là: Trời dấy vận trung hưng, thời thế mở
ra công cuộc văn trị.” Quang Hưng là một niên hiệu của vua Thế Tông, Lê Duy
Ðàm. Giáo Sư Nguyễn Huệ Chi cho biết, tác giả bài văn bia này gồm hai vị,
Thượng Thư Bộ Lễ Dương Trí Trạch và Hàn Lâm Viện Hiệu Lý Nguyễn Văn Lễ.
Hai câu mở đầu
bài văn bia nói đến Thiên và Thế, trời và cuộc đời. Vận Trời là chuyển biến trong
xã hội và lịch sử, Cuộc Ðời là do con người tự quyết định, tự tạo nghiệp cho
mình. Chuyển biến lịch sử đã thấy rõ: Chế độ Cộng Sản sụp đổ ở Liên Xô và Ðông
Âu, Trung Cộng và Việt Cộng phải tự tư bản hóa; kinh tế toàn cầu khiến các quốc
gia tùy thuộc lẫn nhau, không nước nào có thể xưng hùng xưng bá. Cảnh Trung
Cộng và Mỹ tranh hùng đang diễn ra ngay trong vùng Biển Ðông nước ta. Dân tộc
Việt Nam có cơ hội phục hưng!
Phục hưng nghĩa
là không dùng bạo lực và dối trá để trị dân, phải bắt đầu một chế độ “văn trị,”
xây dựng đạo lý, thượng tôn pháp luật, tôn trọng những quyền tự do của con
người!
Câu đố của John
Kerry đã được Nguyễn Huệ Chi giải đáp. Chắc ông ngoại trưởng Mỹ cũng biết Hà
Nội được gọi là nơi “ngàn năm văn vật!” Ông đến Việt Nam để cổ võ một nền “văn
trị,” nên đã trích văn bia Quốc Tử Giám, như ông Obama đã biết trích dẫn Nguyễn
Trãi và Truyện Kiều. Họ kính trọng người khác, nên cũng được kính trọng.
Nguồn: Theo Nhật Báo Người Việt