Nguyễn
Trung: "Những gì đất nước chắt chiu xây dựng nên được 40 năm nay phải
trả cái giá đắt lắm, phải cố gìn giữ để phấn đấu tạo sức đi tiếp. Hay là cam
chịu để cho chế độ chính trị của đất nước tha hoá tiếp? Đành khoanh tay chờ đến
một ngày nào đó ruỗng mục sẽ dẫn tới tự sụp đổ trong cảnh nồi da xáo thịt? Đã
có những suy nghĩ như vậy trong lòng đất nước, bởi vì mất niềm tin ĐCSVN có thể
cải cách đổi đời cứu nước và thay đổi chính mình! Giữa lúc đất nước đang tìm
đường bước vào quốc gia khởi nghiệp với nhiều hy vọng! Giữa lúc đất nước đang
ngấp nghé bên miệng hố chiến tranh của khu vực và sự can thiệp ngày càng nguy
hiểm của bên ngoài! Giữa lúc hoà bình ở Đông Nam Á và bạn bè khắp thế giới mong
mỏi có một Việt Nam góp phần xứng đáng vào an ninh, ổn định và phát triển của
khu vực… Có cam chịu như thế không?"
Nguyễn
Trung
Hà Nội, khai bút tháng 1-2017
I. Nhìn lại thế giới hôm qua
Trước chiến tranh thế giới II là những cường quốc lớn
tranh giành nhau các thuộc địa trong sự suy tàn của một số đế quốc lâu đời như
Anh, Hà Lan, Pháp… Nổi lên là 3 cường quốc mới Đức, Ý và Nhật muốn phân chia
lại quyền lực trên thế giới và đã gây ra chiến tranh thế giới II.
Sau chiến tranh thế giới II, thắng lợi to lớn của
Liên Xô chống chủ phát xít Đức, Nhật đã dẫn tới sự ra đời của hệ thống thế giới
xã hội chủ nghĩa. Trên thế giới hình thành một trật tự mới. Quan điểm chính
thức của phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu (thể hiện trong các văn kiện
chính trị chính thức của các nước xã hội chủ nghĩa) gọi đấy là trật tự quốc tế
của một thế giới 2 phe 4 mâu thuẫn:
– 2
phe: Một bên là phe xã hội chủ nghĩa, một bên là phe đế quốc; và
– 4 mâu thuẫn: (1) mâu thuẫn giữa chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc; (2) mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và
phong trào giải phóng dân tộc. (3) mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai
cấp tư bản trong lòng các nươc đế quốc; (4) mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với
nhau.
Từ khi chiến tranh thế giới II kết thúc, cho đến khi các
nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô sụp đổ sau những biến động suốt thời
kỳ 1989-1991 (bắt đầu từ sụp đổ bức tường Berlin cho đến khi Liên Xô tan rã),
thế giới rơi vào cục diện chiến tranh lạnh. Đây là hình thái thể hiện tập trung
nhất sự tranh giành quyền lực giữa một
bên là Liên Xô với tất cả
các tập hợp lực lượng có thể có được dưới lá cờ của chủ nghĩa xã hội – chủ
nghĩa cộng sản, và một bên là Mỹ, với tất cả tập hợp lực lượng
dưới lá cờ tự do dân chủ và chống cộng. Ý thức hệ của mỗi bên không chỉ đơn
thuần là những giá trị tinh thần, mà còn là một loại quyền lực chính trị chi
phối sâu sắc sự phát triển của mỗi bên và các nước liên quan, tác động vào mọi
vận động trên thế giới.
Cả hai tập hợp lực lượng này ra sức phát huy ảnh hưởng
của mình vào thế giới thứ 3 – đó là phong trào giành độc lập dân
tộc của các nước thuộc địa và bán thuộc địa, phong trào cộng sản và công nhân
trên thế giới. Sự tranh giành
quyền lực này trở thành yếu tố quyết định nhất chi phối toàn diện mọi diễn biến
trên thế giới; mọi mặt trận chính giành giật nhau giữa hai “phe” này diễn ra
chủ yếu trên trận địa nước bên thứ ba. Nguyên nhân quan trọng nhất của thực
tế này (chiến tranh lạnh) là cả Liên Xô và Mỹ đều hiểu sâu sắc: với tiềm năng
quân sự cả hai bên có trong tay, đụng độ trực diện sẽ đồng nghĩa với tự huỷ
diệt lẫn nhau. Vì thế, bằng mọi cách làm suy yếu hay khuất phục đối phương từ mọi ngả – mọi ngách thứ 3 là chiến lược cả Liên Xô và Mỹ đều lựa
chọn.
Tuy nhiên, cuộc chiến tranh lạnh này còn chứa đựng một
cuộc đụng độ khác, trực tiếp, toàn diện trên tất cả các mặt trận kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội – ngoại trừ đối đầu quân sự trực tiếp. Tính đối kháng của
đụng độ này rất quyết liệt. Phe xã hội chủ nghĩa ý thức sâu sắc thực tế này và
đã chủ động đề xướng cuộc chạy
đua ai thắng ai? (Who –
whom?) – giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc, với niềm tin khẳng định:
Xu thế tất yếu của loài người là tiến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Trong ba thập kỷ đầu tiên của phe xã hội chủ nghĩa, trả
lời câu hỏi ai thắng ai? là nội dung trung tâm chi phối mọi
hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng của tất cả
các nước xã hội chủ nghĩa. Riêng Liên Xô và Cộng Hoà Dân Chủ Đức còn là hai
nước đi tiên phong trong xây dựng lý luận phát triển, mở rộng và sáng tạo những
quan điểm mới của chủ nghĩa Mác – Lênin cho xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhằm bảo
đảm giành toàn thắng trong cuộc đấu tranh ai
thắng ai? này trên phạm vi
thế giới. Hồi ấy, đi xa nhất về phương diện nghiên cứu lý luận là CHDCĐức, với
các thuyết về xây dựng “dân tộc Đức xã hội chủ chủ nghĩa”, “nhà nước Đức xã hội
chủ nghĩa”, tại Liên Xô có học thuyết Brejnev…
Những nỗ lực quan trọng nói trên về mặt lý luận còn nhằm
giải quyết (a) những tác động của hiện tượng đảng Cộng Sản Nam Tư do Jojip Broz
Tito lãnh đạo đã không chấp nhận đường lối và sự lãnh đạo của Liên xô, dẫn tới
việc Stalin năm 1948 khai trừ Nam Tư khỏi phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế, và (b) xử lý những mâu thuẫn nan giải ngày càng lớn trong nội trị các nước
xã hội chủ nghĩa trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trên thực tế, mặc dù có những ký kết hợp tác quan trọng
của một liên minh chặt chẽ – điển hình là Hiệp ước Hữu nghị – Hợp tác – Tương
trợ ký 1955 tại Varsovie, hình thành khối quân sự do Liên Xô dẫn đầu; song
trong suốt thời kỳ tồn tại của mình phe xã hội chủ nghĩa vì những khó khăn kinh tế và nội
trị bên trong đã không thể
tạo ra được cho mình sự phát triển ổn định:
1956 đã xảy ra vụ nổi dậy chống lại chế độ XHCN ở
Hungarie (trước đó, 1949, đã xảy ra vụ nổi dậy ở Đông Berlin do Liên Xô kiểm
soát), Bắc Triều Tiên ngay sau khi chiến tranh chấm dứt (1950-1953) từ đầu thập
kỷ 1960s đã thoát ly phe xã hội chủ nghĩa với thuyết
chủ thể của Kim Nhật Thành,
từ những năm 1960s Rumani và Albani ngày càng tách rời Liên Xô để đi với Trung
Quốc, 1968 xảy ra vụ nổi dậy mang tên gọi mùa
xuân Prahaphải đưa quân đội khối Varsovie vào trấn áp, từ cuối những năm
1970s trở đi xuất hiện phong trào công đoàn đoàn kết ở Ba Lan. Tiếp theo là
những biến động ngày càng gia tăng ở hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu
trong thập kỷ 1980s – với cú hích là sự sụp đổ của bức tường Berlin ngày
09-11-1989 – đã dẫn tới sự sụp đổ chế độ chính trị của các nước XHCN Đông Âu.
Và cuối cùng là những biến động và đổ vỡ liên tiếp tại Liên Xô bắt đầu từ triều
đại Brejnev (từ 1964 – 1982) – chủ yếu do kinh tế kiệt quệ bởi những lỗi hệ
thống (mặc dù Liên Xô là cường quốc khoa học nghiêng ngửa với Mỹ), chạy đua vũ
trang quá đà, tê liệt trong chiến tranh Afghanistan, vụ Chernobyl, sự chia rẽ
giữa các nước trong Liên bang Xô viết, Glasnot thất bại vì tình thế tai biến
của Liên Xô đã quá trầm trọng… Tình hình này đã dẫn tới sự sụp đổ của Liên Xô
11-1991 – trong sự ngỡ ngàng của Mỹ và phương Tây.
Đấy là sụp đổ của chủ nghĩa xã hội: kinh tế kế hoạch hoá với quốc doanh là chủ đạo; chế độ
chính trị toàn trị dựa trên chuyên chính vô sản và đấu tranh giai cấp; quốc
sách xoá bỏ sở hữu tư nhân và các quyền tự do dân chủ của công dân; quốc nạn
quan liêu tham nhũng tàn phá kinh tế và các giá trị đạo đức xã hội, đoàn kết
dân tộc và động lực phát triển của đất nước bị huỷ hoại.
Với sự tự sụp đổ như vậy của chính mình, phe XHCN thất
bại hoàn toàn trong cuộc đấu tranh ai
thắng ai? này.
Khi thành lập năm 1949, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa về
danh nghĩa đứng trong phe xã hội chủ nghĩa, song chưa bao giờ phục tùng Liên
Xô. Tháng 6-1966 Mao đã phát động phong trào cách mạng văn hoá, công khai tranh
giành ảnh hưởng với Liên Xô ở phạm vi quốc tế. Qua thông cáo chung Thượng Hải
1972, Trung Quốc chuyển sang đi với Mỹ chống Liên Xô, quay lưng lại với cuộc
kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam. 1975 Trung Quốc dấy lên vấn đề Khmer đỏ, mở
ra mặt trận phía Nam chống Việt Nam; 02-1979 tiến hành chiến tranh biên giới
phía Bắc chống Việt Nam. Cách mạng văn hoá thất bại, với đổi mới 1976 “mèo
trắng cũng như mèo đen, miễn là bắt được chuột” do Đặng Tiểu bình khởi xướng,
Trung Quốc trên thực tế đã chính thức vứt bỏ cái danh (ngọn cờ) chủ nghĩa xã
hội theo nghĩa truyền thống của chủ nghĩa Marx, công khai thực hiện khát vọng
thực của mình là chủ nghĩa Đại Hán dưới cái tên gọi “chủ nghĩa xã hội đặc
sắc Trung Quốc”.
Phong trào giành lại độc lập dân tộc của các nước thuộc
địa và bán thuộc địa được hưởng lợi từ phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc nở rộ sau chiến tranh thế giới II, được sự hậu thuẫn rất lớn của phe XHCN,
trước hết là Liên Xô. Đã xuất hiện nhiều phong trào cánh tả mạnh mẽ tại những
quốc gia này. Chủ nghĩa mao-ít cũng một thời thâm nhập và lũng đoạn phong trào
này. Song trừ trường hợp Cuba lựa chọn con đường của chủ nghĩa xã hội, hầu hết
các nước thuộc địa và bán thuộc địa còn lại cuối cùng đã lựa chọn con đường của
chủ nghĩa tư bản (đương nhiên Cuba sau Fidel Castro sẽ là câu chuyện khác), từ
cuối 1960s thế giới hầu như không còn nước thuộc địa. Nói cách khác, trên trận
địa của phong trào độc lập dân tộc, cuối cùng phe xã hội chủ nghĩa cũng bị đẩy
lùi hẳn. Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế mai một dần trước sự phát
triển trong lòng các nước công nghiệp phát triển, và ngày nay không còn ảnh
hưởng gì đáng kể.
(Song trên thế giới đến hôm nay còn một trào lưu có tên
gọi là “quốc tế xã hội chủ nghĩa” – Socialist International – của các đảng Dân
chủ Xã hội, có nhiều đảng trong những thời kỳ nhất định đã thắng cử và cầm
quyền ở nhiều nước công nghiệp phát triển, sẽ bàn vào một dịp khác).
Nếu nói rằng chủ nghĩa cộng sản / chủ nghĩa xã hội – với
tiền thân của nó là phong trào cách mạng của giai cấp công nhân thế giới hình
thành từ cuối thế kỷ 18 – đã
bị đẩy lùi trên phạm vi toàn thế giới, hay là nói nó đã làm xong vai trò lịch sử của
nó – cả 2 cách nói này đều
đúng với sự thật.
Lịch sử không có chữ nếu và không thể làm lại
được, vì vậy nên nhìn nhận phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cũng như sự
xuất hiện một thời của hệ thống thế giới xã hội chủ nghĩa là một sản phẩm tất yếu của lịch sử.
Sự ra đời – vận động – rút khỏi sân khấu thế giới của sản phẩm tất yếu này do sự vận động khách quan của lịch
sử tạo ra và quyết định. Không phải ngẫu nhiên cả Marx và Engels đã không
dưới một lần nhắc lại một triết lý của các bậc tiền bối trước họ: “Tự do là
phải hiểu lẽ tất yếu!” Với cách nhìn như vậy, có thể xem phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế và sự xuất hiện một thời của hệ thống thế giới xã hội chủ
nghĩa trước hết như là
một nỗ lực của một bộ phận tinh hoa nhân loại muốn tìm ra một alternative tốt
hơn cho thế giới vào lúc bắt đầu thời kỳ công nghiệp hoá đầy máu và nước mắt ở
giai đoạn ấy. Còn sự tha hoá
của khái niệm và của con người trong nỗ lực này là sản phẩm phái sinh – sản
phẩm sau này.
Hiển nhiên suốt chiều dài của lịch sử, trong cộng đồng
nhân loại luôn luôn có những bộ phận tinh hoa vươn lên phía trước như thế. Nói
khái quát hơn nữa, sự tiến bộ của xã hội loài người trong suốt chiều dài lịch
sử của nó là kết quả thành/bại của những nỗ lực nối tiếp nhau không ngừng nghỉ
của con người, để đi tìm và tạo ra alternative / những alternatives (giải pháp,
kịch bản thay thế cái đang diễn ra) hướng về phía trước cho cuộc sống đương
đại, luôn luôn tìm cách vượt lên thực tế hiện hữu để khai phá con đường mưu cầu
tự do và hạnh phúc. Đêm dài thời trung cổ (từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 15) là thời
kỳ đau khổ dài nhất của nhân loại cho đến khi nó được thay thế bởi thời kỳ khai
sáng (một alternative khác). Ngày nay, tiến bộ của văn minh nhân loại
giúp con người ngày càng nhiều trí tuệ làm chủ tốt hơn cuộc sống của mình và
làm chủ thế giới, có nhiều khả năng hơn trong việc nhìn nhận thực tại và phía
trước, nhất là để xây dựng các ước mơ – qua xây dựng các alternatives. Chủ
nghĩa xã hội từng là một alternative, một ước mơ như thế. Song nếu coi những
ước mơ / những alternatives này là quy
luật tất yếu khách quan, thì đấy lại là ngộ nhận và duy tâm, sẽ vỡ mộng
chắc chắn cũng là tất yếu khách quan.
Trong cuộc chiến tranh lạnh sau chiến thế giới II, cuộc
chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam là cuộc
chiến tranh nóng lớn nhất,
kéo dài nhất và đẫm máu nhất sau chiến tranh thế giới II, mật độ sử dụng bom
đạn vượt chiến tranh thế giới II. Mục tiêu chiến lược của cuộc chiến tranh
Việt Nam là đẩy lùi và bao vây chủ nghĩa cộng sản. Cuộc kháng chiến của Việt
Nam chống Mỹ xâm lược gánh trên lưng nó cuộc đối đầu trực diện giữa hai phe của
thế giới với tất cả sự quyết liệt của nó.
Hơn thế nữa, trong lòng cuộc chiến tranh Việt Nam còn
chứa đựng những cuộc chiến tranh khác, báo chí thế giới hồi ấy gọi đấy là các cuộc chiến tranh qua tay người
khác (proxy wars), bóc trần
chính sách “Trung Quốc toạ sơn quan hổ đấu, quyết đánh Mỹ đến người Việt Nam
cuối cùng” vân vân…
Hôm nay, bình
tĩnh nhìn lại phải nói tách bạch ra cuộc
kháng chiến của Việt Nam chống Mỹ xâm lược mang trong lòng nó:
1. Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống ngoại
xâm.
2. Cuộc chiến tranh trên đất Việt Nam của chủ nghĩa đế
quốc chống chủ nghĩa xã hội.
3. Cuộc chiến của Mỹ chống Liên Xô trên đất Việt Nam.
4. Cuộc chiến của Trung Quốc trên đất Việt Nam chống Mỹ –
với mục tiêu đẩy vòng vây của Mỹ ra xa biên giới Trung Quốc tới mức có thể.
5. Cuộc chiến của Trung Quốc trên đất Việt Nam chống Liên
Xô.
6. Cuộc chiến của Liên Xô trên đất Việt Nam nhằm tranh
giành ảnh hưởng thế giới chống Trung Quốc.
7. Và vô cùng đau lòng, đây còn là cuộc nội chiến đẫm máu
nhất trong lịch sử nước ta giữa hai miền Bắc – Nam[2].
Có thể xem cuộc chiến tranh Việt Nam là một ví dụ tiêu
biểu rất kinh điển (classic) về cái giá nước
bên thứ ba phải trả cho sự
giằng xé nhau giữa các cường quốc. Trong trường hợp của mình, cái giá Việt Nam
phải trả vô cùng đắt! Chết nhắm mắt không nguôi! Nhưng không phải để hận thù,
mà để hiểu thấu nỗi đau của đất nước mình là nạn nhân đau thương nhất của cuộc
chiến tranh lạnh này, tích tụ bản lĩnh và trí tuệ nhìn về phía trước.
Xin đừng bao giờ quên: Vận
mệnh đất nước ta trong thời kỳ này bị các cường quốc bán đứng cho nhau không
dưới một lần. Cuộc chiến tranh này để lại cho đất nước ta những hệ quả tai ác
đến hôm nay vẫn chưa sao thoát ra được! Hễ
là người Việt Nam, nhất thiết phải đời đời không được quên cái giá đã phải trả
này, để tất cả với ý chí tổ quốc trên hết, để tất cả với hoà giải và đoàn kết
dân tộc cùng nhau từ nay trở đi luôn luôn phải giành bằng được quyền làm chủ
vận mệnh đất nước mình, bất kỳ cái thế giới này xoay vần ra sao! Muốn sống thì phải như vậy. Đến hôm
nay vẫn hoàn toàn chưa học được như vậy – (chủ đề này xin được bàn vào một dịp
khác).
Sau chiến tranh thế giới II, (1) sự phát triển vũ bão của
kinh tế thế giới là nguyên nhân quyết định nhất thay đổi sâu sắc sự vận động
của các mối quan hệ kinh tế trên thế giới. Quá trình toàn cầu hoá kinh tế thế
giới đi vào giai đoạn phát triển mới. (2) Đồng thời, với sự xuất hiện của phe
xã hội chủ nghĩa và phong trào độc lập dân tộc của thế giới thứ 3, chế độ thuộc
địa hầu như không còn nữa. Đây là 2 yếu tố quan trọng nhất tạo ra bước tiến
triển mới của văn minh nhân loại hôm nay: Thế
giới hôm nay là thế giới của các quốc gia độc lập có chủ quyền; hệ thống thế
giới XHCN không còn tồn tại; đồng thời chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân,
và chủ nghĩa thực dân mới cũng đều bị xoá sổ.
Dù trải qua những bước thăng trầm, song nhìn chung các
nước đang phát triển (còn được gọi là các nước phương Nam, là thế giới thứ 3)
ngày càng giữ vai trò quan trọng trên trường quốc tế, đã trở thành những tập
hợp lực lượng quan trọng trong một số vấn đề nhất định của thế giới. Tuy nhiên,
ngoài một số rất ít các quốc gia trở thành NICs, phần lớn các nước còn lại
trong thế giới thứ 3 vẫn là thành phần chịu nhiều thua thiệt nhất trong quá
trình toàn cầu hoá của kinh tế thế giới, một số không nhỏ các quốc gia vẫn đang
ở trong trạng thái chậm phát triển.
Với sự sụp đổ của phe xã hội chủ nghĩa, chiến tranh lạnh
I kết thúc, mở ra thời kỳ hậu
chiến tranh lạnh. Toàn cầu hoá kinh tế thế giới đi vào thời kỳ phát triển
bùng nổ nhất cho đến nay, tiếp tục thay đổi sâu sắc bản đồ kinh tế thế giới và
sự vận hành của nó suốt ¼ thế kỷ vừa qua, các khung khổ và thể chế quốc tế và
khu vực ngày càng trở nên bất cập trước sự phát triển này.
Thực tế khách quan nêu trên một mặt làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp mới
trong lòng mỗi quốc gia cũng như giữa các quốc gia với nhau ở phạm vi các cộng
đồng, các khu vực và quốc tế – nguyên nhân chủ yếu là: sự phát triển không đồng
đều; những khác biệt mới do các khoảng cách phát triển, khoảng cách giầu/nghèo
và khoảng cách thu nhập gây ra; ngày càng nhiều thách thức mới truyền thống và
phi truyền thống – đặc biệt là những vấn đề: IS & nạn khủng bố, biến đổi
khí hậu, quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm, di chuyển lao động, vấn đề di
cư…
Trong khi đó mặt
khác kinh tế tri thức và cách
mạng cộng nghiệp 4.0 trở thành động lực quyết định của phát triển, làm cho kinh
tế thế giới ngày càng vận động như một thị trường lớn đồng nhất, điểm nổi bật
là kinh tế của hầu hết mọi
quốc gia trên toàn thế giới đều vận hành trên nền tảng của kinh tế thị trường
với các nấc thang phát triển khác nhau. Đấy là nền kinh tế vận động *theo
sự tương tác của các mối quan hệ giữa cầu và cung (demand and supply), *thừa
nhận quyền sở hữu cá nhân, *tự do thương mại.
Một số nước hôm nay tự coi mình là XHCN (Trung Quốc, Việt
Nam, Cuba…), thực ra đây chỉ là cách gọi theo tính chất của chế độ chính trị,
nền kinh tế của những quốc gia này thực tế vẫn là các nền kinh tế thị trường ở
các mức độ như: kinh tế thị
trường hoang dã, kinh tế
thị trường kém phát triển, kinh tế thị trường của chủ nghĩa tư bản thân hữu
(crony capitalism). .; hiện
nay cả Việt Nam và Trung quốc đang vận động thế giới thừa nhận kinh tế của mình
là kinh tế thị trường mà chưa được.
Chính sự phát triển năng động nói trên đã sản sinh ra
những khái niệm mới như thế
giới phẳng (T. Friedman), sự cáo chung của lịch sử (F. Fukuyama) [3]. Thực ra thế giới hôm nay ngày càng
nhiều khác biệt mới, những mâu thuẫn và thách thức mới, song lại vận động trên
nền tảng thống nhất của kinh tế thị trường ở giai đoạn toàn cầu hoá phát triển
cao nhất đến nay.
Hiển nhiên, ngày nay các quốc gia trên thế giới phân chia
thành thành 3 loại: Các nước phát triển, các nước đang phát triển, các nước
chậm phát triển. Sự phân chia theo ý thức hệ như “nước tư bản chủ nghĩa”, “nước
xã hội chủ nghĩa” không còn thích hợp. Đây
không chỉ là vấn đề từ ngữ, mà là thế giới đã chuyển sang một thời kỳ phát
triển khác, *với sự kết thúc của một lối tư duy và hành động theo ý thức hệ tồn
tại từ sau chiến tranh thế giới II đến nay, *với sự phá sản của mọi thứ “chủ
nghĩa” đi kèm, *để hôm nay vận động trong những mối quan hệ tương tác của phân
hoá/tập hợp lực lượng theo lợi ích mới[4].
II. Sự thai nghén quá trình thế giới sang trang hôm nay
Quá
trình toàn cầu hoá kinh tế mang lại cơ hội phát triển năng động cho mọi quốc
gia, song tự nó không phải là bữa tiệc win – win hay free lunch cho mọi người,
luôn làm nảy sinh những bất bình đẳng mới, mâu thuẫn mới (nghĩa là không
“phẳng” như T Friedman nghĩ), do đó làm xuất hiện nhiều vấn đề mới trong địa
kinh tế và địa chính trị toàn cầu, dẫn tới phân hoá và tập hợp lực lượng mới ở
mọi khu vực. Sự phát triển này hôm nay đang khơi ra chiến tranh lạnh lần thứ
hai, đang bắt đầu dấy lên cuộc chạy đua vũ trang mới toàn cầu.
1. Sự xuất hiện những nhân tố mới
Từng chu kỳ,
kinh tế thế giới có những cuộc khủng hoảng lớn. Song nhìn chung cả chiều dài
thời gian từ sau chiến tranh thế giới II đến nay, có thể nói đây là thời kỳ
kinh tế thế giới phát triển năng động nhất so với trước đó. Đặc biệt là từ khi
phe XHCN sụp đổ, quá trình toàn cầu hoá kinh tế thế giới đi vào một thời kỳ
bùng nổ. Tuy nhiên ngay cả trong thời kỳ này, các số liệu thống kê của Liên
hiệp quốc, của các thể chế lớn như WB, IMF, ADB… đều cho thấy hiện tượng xuyên
xuốt là khoảng cách thu nhập giữa các nước phát triển và các nước kém phát
triển hơn tiếp tục ngày càng
rộng. Trong lòng mỗi quốc gia cũng cho thấy: hiện tượng bất bình đẳng này
ngày càng lớn. Đây chính là nguyên
nhân đầu tiên của những mất
ổn định mới và những vấn đề nảy sinh mới trong quá trình phát triển của mỗi
nước cũng như trong toàn bộ quá trình toàn cầu hoá ở nấc thang mới hiện nay[5].
Quan sát kinh tế thế giới, từ thập kỷ 1980s trở đi không
thấy xuất hiện thêm một nước mới công nghiệp hoá (NIC) nào khác ngoài những NICs
mọi người đã biết trước đó. Khoảng
cách Bắc – Nam tiếp tục rộng ra, xuất hiện những bất bình đẳng mới khác thường,
ngày càng nhiều vấn đề mới nan giải giữa phát triển và tăng trưởng, v… v…
Dưới đây xin nêu một số hiện tượng nổi bật qua sự phát
triển của một số quốc gia để minh chứng.
Trước khi bước vào đổi mới thời Đặng Tiểu Bình
1976, Trung Quốc có nền kinh tế với quy mô đứng ngoài tốp 50 các nước trên thế
giới. Năm nay (2016), nghĩa là sau 4 thập kỷ, quy mô nền kinh tế Trung Quốc đã
vươn lên đứng thứ 2 sau Mỹ, dự kiến sẽ vượt Mỹ vào năm 2025. Song sự phát triển
kinh tế ở Trung Quốc có thể được xem là sự phát triển chứa đựng bên trong những
bất công điển hình nhất, bao gồm các nấc phát triển từ hoang dã / dã man nhất
(trong đó có cả sử dụng lao động trong tù, buôn bán nội tạng, vơ vét tài nguyên
bên ngoài, sự can thiệp quyết liệt của chính trị, tệ nạn tham nhũng, gian trá
tiền tệ, ăn cắp bản quyền, sử dụng chất độc hại, tàn phá môi trường…) cho đến
nấc phát triển hiện đại nhất. Khoảng cách thu nhập giầu/nghèo trong lòng quốc
gia này cũng lớn hơn so sánh với hầu hết các nước khác trên thế giới… Dù biện
bạch thế nào, quốc gia này hiện có khoảng 20 trong số 100 tỷ phú hàng đầu thế
giới, trở thành chủ nợ lớn nhất thế giới, trong đó Mỹ là con nợ lớn nhất. Trung
Quốc khai thác triệt để lợi thế là
thị trường tất cả các nước công nghiệp phát triển đều cần. Sự vơ vét tài
nguyên và lợi nhuận trên thế giới của Trung Quốc được đánh giá là vượt xa chủ
nghĩa thực dân mới một thời của phương Tây. Hiện nay Trung Quốc đang giữ thế
thượng phong trong khối BRICS (Brasil, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Nam Phi) chiếm ¼
GDP toàn cầu, chủ xướng ra Ngân hàng Phát triển hạ tầng Châu Á (AIIB), đồng
tiền Nhân dân tệ từ 01-10-2016 chính thức được đưa vào giỏ các đồng tiền tạo ra
SDR (các đơn vị tiền tính bằng quyền rút vốn đặc biệt – SDR) của IMF; từ nhiều
năm nay đang ráo riết xúc tiến chiến lược bành trướng kinh tế một vành đai – một con đường (one belt – one road) mong tái lập lại
huyền thoại con đường tơ lụa. Ngay sau khi Trump trong tranh cử tuyên bố sẽ rút
khỏi TTP, tại hội nghị cấp cao APEC họp ở Peru 11-2016 Tập Cận Bình vồ luôn:
Trung Quốc sẽ là cơ hội cho cả thế giới, sẵn sàng thành lập cộng đồng kinh tế
Châu Á – Thái Bình Dương thay thế… Trong khi đó quyền lực mềm của Trung Quốc
tiếp tục vươn xa ở châu Mỹ Latinh (thường được coi là sân sau của Mỹ) và châu
Phi. Ngày 24-12-2016, giữa lúc cả thế giới chú ý vào lễ giáng sinh, tuần dương
hạm Liêu Ninh cùng với 7 chiến hạm khác của Trung Quốc lần đầu tiên xuất hiện
trên vùng biển Hoa Đông, (một hình thức “đáp lại” ngay tức khắc những gì Trump
thắng cử đã nói về Trung Quốc và vấn đề Đài Loan). Trên thế giới có không
ít ý kiến nhắc lại cảnh báo xưa của Napoleon về con sư tử ngủ Trung Quốc và lời
thú nhận của Nixon về một Frankenstein Trung Quốc, đồng thời cảnh báo tiếp: Cái
Barbaric đang thắng cái Civilization (một tiếng nói tương tự như trong cuốn
sách “Death by China’” của Navarro & Autry) !
Thế giới đang chứng kiến một Trung Quốc ngày
càng táo tợn, sẵn sàng lấp mọi chỗ trống, đặt ra những vấn đề mới về địa chính
trị và địa kinh tế toàn cầu, đang lặp lại chào mời với Mỹ chia đôi Thái Bình
Dương, trở thành một cực ngày càng mạnh mà thế giới chưa biết kiềm chế như thế
nào.
Nước Nga của Putin đã ra khỏi thập kỷ chịu đựng
những đổ vỡ ngay sau khi Liên Xô sụp đổ, trong đó giá dầu cao ở thập kỷ tiếp
theo đã giúp Nga phục hồi đáng kể. Ngày nay Nga đã lấy lại được vị thế cường
quốc quân sự (chỉ sau Mỹ về phương diện vũ khí hiện đại). Hiện nay, một mặt do khát vọng phục hồi đế chế Nga – một đòi hỏi như một lẽ tất yếu để
tồn tại trong tình thế một số
nước thành viên trong Cộng
đồng các quốc gia độc lập (CIS) [6] vẫn muốn ly khai tiếp sự lãnh đạo của
Nga. Trong khi đó các nước thuộc Liên Xô cũ không tham gia CIS và các nước XHCN
Đông Âu cũ tiếp tục có thái độ đi hẳn với phương Tây, chống hoặc ngờ vực Nga –
điển hình là vấn đề Ukraina. Mặt
khác, do NATO ngày càng
tập trung mũi nhọn vào Nga, buộc Nga phải tìm mọi cách từng bước lấy lại vị thế
toàn cầu của mình. Việc Nga chiếm Crimea và tham chiến quyết liệt tại Syrie để
bảo vệ đồng minh duy nhất của mình có thể xem là phản ứng mang tính sống còn.
Hệ quả: Nga phải chịu những đòn nặng nề của cấm vận từ Mỹ và EU, lại trong tình
hình những năm gần đây giá dầu rớt liên tục nên càng nguy khốn. Phương Tây có
không ít dự báo nước Nga Putin sẽ sụp đổ. Nhưng Nga đã trụ lại được – chủ yếu
nhờ thu nhập từ nguồn tài nguyên bao la của mình, sức mạnh quân sự có trong tay
và chịu khắc khổ. Nhưng đặc
biệt quan trọng là Putin đã quyết đoán dốc toàn lực chơi sát ván ở Syrie. Việc chiếm
lại Aleppo từ phe đối lập đã giúp Nga đảo ngược được cuộc chơi, giữ được chế độ
Assad, đẩy lùi phe đối lập nhưng không chú trọng chống IS, khẳng định được vai
trò không thể thiếu của Nga ở Trung Đông và toàn cầu. Tinh thần dân tộc ở Nga đã
được dấy lên để hậu thuẫn những bước đi quyết liệt này của Putin. Nga hiện nay
vẫn còn nhiều khó khăn trong nước vì tiềm lực hạn chế, nhưng gần đây nhất số
phiếu thăm dò tín nhiệm Putin vẫn tăng cao. Nga đã có những ký kết lớn hợp tác
với Trung Quốc – trước hết trên phương diện kinh tế (400 tỷ USD cho những năm
tới), chủ động xúc tiến quan hệ Nga – Thổ – Iran cho các vấn đề ở Trung Đông
không có Mỹ (Nga cố tình loại Mỹ để tạo thế mặc cả với Mỹ). Tuy nhiên có
thể nói đây là những cuộc hôn
nhân bất đắc dỹ, vì mỗi bên có những lợi ích riêng không dung hoà được, có
không ít các yếu tố khiến mỗi bên có thể trở thành mối nguy của nhau hoặc phá
bỏ liên minh.
Nắm bắt được rất sớm tình hình bầu cử ở Mỹ và chủ
trương tìm kiếm một triển vọng chiến lược khác, ngay từ đầu Putin đã chủ động
tỏ thiện chí với Trump, tập trung đả kích Obama / H. Clinton. Muốn hay không,
vẫn phải thừa nhận sự can thiệp của Nga đã tác động nhất định vào bầu cử ở Mỹ,
chống H. Clinton và có lợi cho Trump (cyber hack nếu có sẽ chỉ là một bộ phận
của sự can thiệp này). Hiển nhiên Nga đã chủ động mở ra khả năng mới
hợp tác Nga – Mỹ và được Trump hưởng ứng. Đây
là sự gặp nhạu của 2 cách nhìn khác thường; trong khi đó không thấy Nga có
những bước đi gì đặc biệt với Trung Quốc. Dù lâm vào tình huống còn khó khăn
nhiều bề, song báo chí Mỹ thừa nhận nước Nga Putin đã lấy lại phần nào vị thế
Liên Xô cũ. Nghĩa là: Những tính toán của Putin đến đây đã thắng những tính toán của Obama,
giành lại được thế chủ động về ngoại giao với tất cả các nước hữu quan – nổi
bật là việc Nga cùng với Thổ vừa qua đã thực hiện được ngừng bắn ở Syrie và gạt
được Mỹ sang một bên.
Mặc dù thế của Nga được cải thiện, nhưng sau chiến dịch
Aleppo toàn bộ những vấn đề nóng bỏng ở Trung Đông / Bắc Phi – trước hết là các
cuộc chiến tranh sắc tộc, vấn đề IS và vấn đề di cư – vẫn còn nguyên vẹn. Một
số phát biểu của nhóm cố vấn Trump cho thấy có những dấu hiện Trump và Putin đang
có những tính toán với nhau về những vấn đề của khu vực này.
Kinh tế Ấn Độ năm 2000 có quy mô xếp thứ 13 thế giới; năm
2016 đã vượt Anh, trở thành nền kinh tế lớn thứ 6 trên thế giới. Sự phát triển
này vấp phải sự canh tranh quyết liệt của Trung Quốc. Trong khi đó vấn đề biên
giới giữa 2 nước vẫn tiếp tục nóng bỏng, việc Pakistan đi với Trung Quốc giữ
thái độ thù địch với Ấn Độ càng làm cho tình hình phức tạp. Đối phó với uy hiếp
này, Ấn Độ quyết tăng cường sức mạnh quân sự của mình, mặt khác đang cùng với
Nhật và Úc cố vận động sự tham gia của Việt Nam để hình thành một tứ giác hợp
tác và phòng vệ trong khu vực.
Suốt hai thập kỷ nay các nước ASEAN nhìn chung vẫn
giữ được sự phát triển và tăng trưởng kinh tế ổn định, là một cộng đồng kinh tế
có tốc độ tăng trưởng cao so với mọi khu vực khác trên thế giới, tự do hoá kinh
tế trong nội nhóm ASEAN đạt những tiến bộ quan trọng theo hướng trở thành một
thị trường thống nhất. Tuy nhiên tính cố kết của ASEAN còn đứng rất xa sự trông
đợi của các nước thành viên. ASEAN có 2 điểm yếu nhất là (a) hợp tác kinh tế
chưa mang lại được cho các nước thành viên sự gắn kết cần thiết, (b) chưa trở
thành chỗ dựa của nhau về an ninh và chưa tao ra được sức mạnh chung của ASEAN
cho an ninh của khu vực. 8 năm
thời Obama sự có mặt của Mỹ trong khu vực không đủ cân bằng lại sự lấn tới
quyết liệt của Trung Quốc, hệ quả là Trung Quốc đã bành trướng được một hệ
thống các căn cứ quân sự xây trên các đảo lấn chiếm ở đây. Với sự phân hoá tiếp tục trong ASEAN
trước sự lũng đoạn của Trung Quốc, đặc biệt là với hiện tượng Duterte, có thể
nói Trung Quốc đã lấn át đáng kể ảnh hưởng của Mỹ tại đây, quyền lực mềm và rắn
của Trung Quốc lũng đoạn ngày càng sâu hơn vào các nước trong khu vực. Phải chăng ASEAN đang đứng trước (hay đúng hơn
là đã bước vào) thời kỳ khủng hoảng về an ninh trước sự uy hiếp và can thiệp
ngày càng tăng của Trung Quốc? Nếu tình hình khu vực nóng lên, có thể nguy cơ
phân rã sẽ ngày càng lớn? Trước
mắt, COC trong tình hình hiện nay đang trở nên xa vời, hoặc giả sử nếu ký kết được
thì cũng chỉ có thể là một COC biến dạng (đánh lừa mọi người) không có thực
chất. Trong tình thế khu vực
và toàn cầu như vậy, Việt Nam là nước dễ bị chấn thương nhất, trên một số
phương diện có lẽ còn mong manh hơn thời kỳ 1979 – 1989.
2. Đã
xuất hiện sự suy yếu chung tương đối của phương Tây trước sự bành trướng toàn
cầu của Trung Quốc, vì hai lý do căn bản:
(a) Hệ thống kinh tế – chính trị của phương Tây bộc
lộ những bất cập mới, những vấn đề mới chưa có lời giải trước những bước phát
triển và thách thức mới của kinh tế trong quá trình toàn cầu hoá hiện nay, đang
đi vào một thời kỳ khủng hoảng của nhiều vấn đề mới chưa có tiền lệ; cũng có
thể nói đây là thời kỳ khủng hoảng tất yếu trong quá trình phát triển, thúc đẩy
những quốc gia này phải tìm phương thức vận động mới, các giải pháp mới, tìm
con đường mới. Có thể coi đây là sự
suy yếu chung tương đối của phương Tây trong quá trình phát triển – nói thế hoàn toàn không có nghĩa là
ngày nay Trung Quốc đã mạnh hơn phương Tây.
(b) Sự phát triển của Trung Quốc mang tính chất
quyết liệt gần như bằng mọi giá. Với triết lý mục tiêu biện minh cho biện pháp,
với những lợi thế của kinh tế quy mô (economies of scales) của một quốc gia
trên 1,3 tỷ dân và còn đang tăng nữa, Trung Quốc đang tận dụng và phát huy hết
mức những khả năng cả xấu và tốt văn hoá Trung Quốc có thể đem lại – nghĩa là
không từ giá nào – để giành mọi lợi thế so sánh có thể trong toàn cầu hoá, khai
thác triệt để mọi khoảng trống hoặc khuyết tật không thể tránh được của toàn
cầu hoá, đánh thẳng vào nhu cầu của đám đông ở mọi nơi hoặc lòng tham cố hữu
của con người ở phạm vi toàn cầu để trục lợi lớn. Tất cả cho phục vụ khát vọng
bá vương. Nói ngắn gọn, đấy là: Sự
xuất hiện thô bạo của một cường quốc có nền kinh tế đông dân nhất thế giới với
đặc sắc Trung Hoa thời hiện đại (“đặc sắc” được hiểu theo tư duy của Lỗ Tấn),
thế giới chưa biết kiềm chế thế nào. (Xin lưu ý cho, trong lịch sử, sự xuất
hiện của một cường quốc mới luôn luôn là thô bạo – no pardon! – với thế giới
chung quanh!)
Dưới đây xin nêu thêm một số nét về sự phát triển của
phương Tây để làm rõ nhận đinh này.
– Quan sát ¼ thế kỷ gần đây nhất – thời kỳ phát triển
bùng nổ nhất của toàn cầu hoá kinh tế thế giới kể từ sau chiến tranh thế giới
II) – người ta cũng thấy khoảng cách thu nhập giầu/nghèo bên trong các nước
phát triển vẫn tiếp tục gia tăng một cách nhạy cảm (Spence, Piketty).
Ngay tại Mỹ, năm 2008 khi Obama lên cầm quyền, có 30 triệu người phải sống nhờ
vào chế độ cấp tem phiếu thực phẩm (một loại trợ cấp tiền bằng phiếu cho những
người có thu nhập thấp chỉ được dùng để mua một số thực phẩm nhu yếu nhất
định), con số này năm 2016 là 46 triệu; cùng thời gian này nợ quốc gia của Mỹ
từ 10 nghìn tỷ USD lên tới con số 19 nghìn tỷ USD – tương đương 100% GDP hiện
nay của Mỹ; quá trình outsourcing 20 năm qua đã xoá xổ khoảng 70 nghìn doanh
nghiệp Mỹ với sự xáo trộn xã hội nghiêm trọng vì số việc làm khổng lồ bị mất
đi. Cùng với hiện tượng này là khoảng 15 triệu người mới nhập cư vào Mỹ với tất
cả những xáo trộn mới trong kinh tế, văn hoá, xã hội… Ở Mỹ đã có những ngành
nghề mất hẳn, thậm chí có một số ngành nghề hay công việc ngày nay chỉ có những
lao động nhập cư thực hiện, tới mức: không có số lao động nhập cư này kinh tế
Mỹ sẽ ách tắc hoặc khó tồn tại. Mỹ thừa nhận đã bị tụt hậu so với một số nước
phát triển nhất về giáo dục, bảo hiểm y tế, phát triển kết cấu hạ tầng… Ở các
mức độ khác nhau, hầu hết các nước phương Tây đều có những vấn đề nan giải
tương tự.
– Brexit là ví dụ điển hình của nguy cơ phân rã trong các
tập hợp kinh tế đa phương hoặc khu vực, cụ thể ở đây là EU. Đương nhiên EU với
đồng Euro đã mang lại nhiều thành tựu lớn cho châu Âu kể từ khi ra đời, song
mặt trái của tấm huân chương có không ít vấn đề nan giải. Nguyên nhân cụ thể
của Brexit là Anh không thể chấp nhận sự phát triển năng động của mình bị trói
buộc vào một thể chế chung của EU được xây dựng trên không ít những nguyên tắc
đồng thuận cồng kềnh. Những người ở Anh khởi xướng Brexit nói thẳng: Không thể
đem lao động năng động và sáng tạo của Anh nuôi báo cô một số nước thành viên
EU có năng suất lao động kém hẳn, càng không được cột đồng bảng Anh vào Euro,
không được biến kinh tế Anh chỉ là một toa tầu sau cái đầu tầu Đức, thời buổi
ngày nay không thể chấp nhận thể chế vận hành đầy quan liêu của EU và quốc hội
EU… Ngay tại Đức, sự phản đối EU và đồng Euro cũng ngày càng tăng, vì người dân
không muốn tiền đóng thuế của mình phải cõng những gánh nặng của EU – nhất là
vấn đề nợ của Hy Lạp; đã xuất hiện đảng “Một phương án khác cho nước Đức” (the Alternative for Germany, đảng AFD) với một cương lĩnh ly khai EU…
– Tại hầu hết các nước Tây Âu khác là thành viên EU cũng
có những hiện tượng tương tự như Brexit, với các lý do cụ thể riêng biệt của
từng nước. Marine Le Pen ở Pháp là nhân vật tiêu biểu cho xu thế này của các
nước Tây Âu. Bà ta đã nói thẳng thừng các bức bối của Pháp và đang cổ vũ cho
Frexit! Le Pen cũng không thể chấp nhận vị thế Pháp đứng sau Đức và Anh, đòi
xoá bỏ Euro để lập lại con rắn
tiền tệ nhằm lấy lại vị thế
đồng Franc, coi Nga có những mối quan hệ tương đồng về văn hoá và lịch sử với
Pháp do đó phản đối việc NATO chống Nga… Với những quan điểm kỳ thị chủng tộc,
Le Pen kịch liệt chống vấn đề nhập cư, đặc biệt là chống Merkel trong vấn đề
này. Trong giới quá khích của những nước này ít nhiều xuất hiện các hiện tượng
gọi là mối nguy mầu nâu (die braune Gefahr) – mối nguy của chủ
nghĩa phát xít mới và mang tính bài Do Thái, (đang xuất hiện cả ở Đức và Nga và
một số nước khác…). Nhiều nước thành viên EU không tán thành việc kết nạp
thổ vào khối này vì những nỗi lo về đạo Hồi…
Không phải vô lý tại tất cả các nước phương Tây, kể cả ở
Mỹ, đã có những ý kiến phê phán toàn bộ hiện tượng này là biểu hiện suy đồi của
dân chủ và các giá trị đạo đức. Song trên thực tế không bao giờ có thể có một
cộng đồng nào hoàn hảo và những giải pháp nào vừa lòng được mọi bên, sự không
đồng đều giữa các thành viên về phát triển là đương nhiên. Cùng với thời gian
hoặc trước một bước ngoặt, những bất đồng khó hàn gắn xuất hiện là tất yếu.
– Hầu hết các nước phương Tây, nói chuẩn xác hơn là giới
kinh doanh của những quốc gia này, đều bị lợi nhuận kiếm được trong làm ăn với
Trung Quốc quyến rũ, tha hoá; có những trường hợp họ đã trở thành con tin, đẩy
nhiều chuẩn mực của đạo đức chính trị và những nguyên tắc quốc gia của nước họ
xuống hàng thứ yếu (outsourcing của Mỹ và nhiều nước Tây Âu bằng mọi giá vào
Trung Quốc là một ví dụ, hôm nay đang phải trả giá). Thị trường Trung
Quốc ngày càng trở nên không thể thiếu được đối với tất cả những quốc gia này,
làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giầu/nghèo ngay trong lòng những quốc gia này, kèm
theo không ít những hậu quả khó xử lý cho kinh tế và nội trị của họ. Chưa nói
đến không ít những chính sách, biện pháp không thể thắng nổi những quy luật của
kinh tế – ví dụ như các biện pháp bảo hộ hay phòng vệ đối phó với những tác
động của hàng hoá giá rẻ, lao động rẻ, các dòng chẩy rất nhạy cảm của tiền tệ…
Thực tế này đã tác động nghiêm trọng nhiều năm chính sách của các nước phương
Tây. Ví dụ: Tình hình nghiêm trọng tới mức sẽ là không sai nếu nói rằng trong
Brexit có cả những nguyên nhân Trung Quốc – chỉ cần quan sát chuyến đi thăm Anh
vừa qua của Tập Cận Bình và những ký kết đạt được để có thể nhận ra điều này.
Tại nhiều nước công nghiệp khác cũng vậy – có lẽ ngoại trừ Nhật, Hàn Quốc?
– Trong khi đó về phía Trung Quốc, những gì người dân
phải gánh chịu cho quá trình mở cửa này, kể cả vấn đề môi trường bị huỷ hoại,
bóc lột lao động thậm tệ… hầu như không phải là vấn đề đối với quốc gia khổng
lồ này. Ngày nay, sự phụ thuộc của các nước phương Tây vào Trung Quốc không
nhỏ, khả năng Trung Quốc trả đũa họ khi tình hình đòi hỏi không phải là dễ kiểm
soát.
– …
– …
Tới đây có thể kết luận: (1) Các bước đi mới của Trung Quốc và Nga trên bàn cờ thế giới, (2)
hiện tượng bài toán IS của thế giới và nhiều thách thức phi truyền thống khác
đến nay chưa có lời giải, (3) xu thế thoái lui do suy yếu tương đối của phương
Tây, (4) tất cả những hiện tượng vừa nêu trên lại đang diễn ra trong bối cảnh
mọi quốc gia trên thế giới phải đối mặt với những thách thức mới của kinh tế
thế giới đi vào thời kỳ phát triển mới với cuộc cách mạng cộng nghiệp 4.0 và
những đòi hỏi mới của quá trình toàn cầu hoá ở giai đoạn hiện nay – đấy là 4 nguyên nhân chính chuyển thế giới sang trang mới, với
những năm tháng quyết liệt phía trước.
Chưa thể nói trước thời kỳ biến động này của sự
chuyển giai đoạn kéo dài bao lâu trước khi thế giới có thể định hình được giai
đoạn phát triển mới của nó.
Tất cả các nước đối mặt với một thế giới đang
bước vào thời kỳ đầy biến động, nổi
lên là những vấn đề:
(1) kinh tế và quá trình toàn cầu hoá
có nhiều khó khăn và thách thức mới – bao gồm cả vấn đề biến đổi khí hậu và
những vấn đề phi truyền thống khác,
(2) cục diện chiến tranh lạnh mới đang làm
xuất hiện ngày càng nhiều điểm nóng, những vấn đề nóng, đẩy thế giới ngấp nghé
chiến tranh lớn (tình trạng brinkmanship), trong đó có khu vực biển Hoa Đông và
Biển Đông,
(3) xuất hiện ở nhiều quốc gia khủng hoảng về
đối sách; trong quan hệ với nhau nhiều nước đang có xu thế quay về lo cho chính
mình tước đã, thiên về giải quyết vấn đề bằng sức mạnh (“hoà bình bằng sức
mạnh”),
(4) sự phân hoá và tập hợp lực lượng mới
trong từng khu vực cũng như ở phạm vi toàn cầu đang làm thay đổi, thậm chí gây
rối loạn hoặc đảo ngược nhiều quốc sách và các bước đi hiện có của mỗi quốc
gia, nhiều nước lúng túng chưa có đối sách.
Sẽ là sai lầm chết người nếu nhìn bước sang trang
đầy biến động này của thế giới chỉ bằng con mắt ý thức hệ hay giáo lý dưới bất
kỳ hình thức nào – ví dụ gọi đấy là khủng hoảng và giẫy chết của chủ nghĩa tư
bản, là sự khẳng định cái tất yếu phải đi lên chủ nghĩa xã hội, hay đơn giản
coi đây là hiện tượng của thời đại suy đồi đạo đức, đổ lỗi mọi khó khăn của
nước mình cho bối cảnh thế giới, v… v… Cách nghĩ đầy cảm tính này chỉ đưa tới
những mối nguy mới.
Đúng hơn, những biến động kể trên đánh dấu bước
ngoặt của thế giới đi vào một thời kỳ vận động mới trước những mới lạ và bất
cập tất yếu so với nhận thức và khả năng thích nghi hiện có của con người và
các quốc gia. Không có quốc
gia nào lựa chọn được thế giới, mà chỉ có tất cả các quốc gia đều đứng trước
đòi hỏi phải hiểu đúng sự vận động này của thế giới để lo quyết sách của mình:
Khôn sống, dại chết!
3. Suy
nghĩ về những khả năng lựa chọn của Mỹ và tác động đối với thế giới
Khi Obama thắng cử nhiệm kỳ I với khẩu hiệu “Change! Yes
we can!”, nước Mỹ và thế giới đã thưởng cho không ít lời ca ngợi hào phóng.
Kinh tế Mỹ thời Obama là một thành tựu rõ rệt. Trong thời kỳ này nước Mỹ có nền
kinh tế phát triển ổn định hơn cả so với hầu hết các nước phát triển khác. Tuy
vậy trong tranh cử, Trump đã phơi ra trước thế giới một nước Mỹ khác. Nước Mỹ của thoái lui (retreat) trên nhiều phương diện. Nói
chuẩn xác: thành tựu kinh tế 8 năm thời Obama không đủ để chặn đứng thoái lui.
Chính quyền Obama không phải là tác giả của tình trạng
thoái lui này, mà chỉ là người kế thừa và tiếp nó. Tình trạng thoái lui này –
xuất hiện chí ít từ thời Bush; nhất là cuộc chiến tranh Iraq đã bào mòn sinh
lực Mỹ và mang lại cho Trung quốc cơ hội vàng trỗi dậy như hôm nay. Như Trump
dẫn chứng trong tranh cử: Lối mòn nước Mỹ đang đi hôm nay đang duy trì sự thoái
lui này một cách nguy hiểm. Nước Mỹ tiếp
tục ngày càng nhỏ đi so với
các thách thức trong/ngoài ngày càng lớn và phức tạp nó phải đối mặt[7].
Trump tranh cử đã đặt lên bàn nghị sự của nước Mỹ một
loạt vấn đề chiến lược mang tính chất
– đoạn
tuyệt lối mòn, tìm con đường khác, làm theo cách khác, xắp xếp cuộc chơi khác;
– đòi
hỏi trong mọi việc phải là “America first!” (nước Mỹ trước hết!), “peace
through strength” (hoà bình bằng sức mạnh) ;
– tất cả
nhằm mục tiêu chiến lược chấm dứt tình trạng thoái lui, làm nước Mỹ hùng mạnh trở lại!
Tính chất sang trang của thế giới hôm nay đặc biệt
quyết liệt là ở những điểm nêu trên. Đánh dấu bước ngoặt có liên quan đến hầu
hết mọi quốc gia. Quyết liệt đến mức hơn một nửa nước Mỹ bỏ phiếu cho H Clinton
– xin nói một cách hình ảnh như vậy – cho
đến hôm nay vẫn không muốn tiêu hoá hoặc chưa tiêu hoá nổi, nhiều người vẫn
tiếp tục xỉ vả Trump. Còn thế giới thì sững sờ trước sự thật như đinh đóng cột
“Thời khắc của bước ngoặt đã điểm và không đảo ngược được nữa!”, lúng túng, hồi
hộp, cân nhắc, có một số ít đã nhạy bén quyết đi theo xu thế của cuộc chơi mới.
Nét nổi bật thứ nhất thời Trump có thể sẽ là “America first!”, nghĩa là làm gì đi nữa nước Mỹ sẽ phải
là trước hết, sẽ ít đi những thứ chiếu cố lợi ích chung hay tập thể, ưu đãi, bố
thí… Sẽ xem lại NAFTA và đóng góp của các nước thành viên NATO. Sẽ cạnh tranh
sẽ quyết liệt hơn. Muốn hưởng cái gì từ Mỹ sẽ không có miễn phí. Thậm chí có
thể quên đi/bỏ qua đối tác nếu không đáp ứng “America first!”… Sẽ có không ít
trường hợp nguyên tắc “America first!” bị coi là vô đạo đức, như Trump đã nói
toạc ra: TTP không cần đối với Mỹ, Nga chiếm Crimea không phải là cái mắc mớ
đối với hợp tác Mỹ – Nga sắp tới, coi việc Mỹ của Obama bỏ phiếu trắng nhờ đó
HĐBA đã thông qua được nghị quyết đòi Israel chấm dứt xây dựng trên đất
Palestine là không chấp nhận được, vân vân… Với “America first!” sẽ không có
chuyện Mỹ làm sen-đầm (gendarmerie) quốc tế – mọi thứ đều phải trả tiền, càng
không có chuyện làm sen-đầm hiệp sỹ…
Nét nổi bật thứ hai là “Peace through strength”
(hoà bình bằng sức mạnh – theo cách nghĩ của Roosevelt, Reagan, tham khảo thêm
bài 3), được hiểu là loại bỏ những chuyện đạo lý / pháp lý lằng nhằng lôi thôi,
cái gì cần làm và có thể thì dùng sức mạnh. Rõ nét nhất là những phê phán của
Trump về cách làm ăn của Trung Quốc đối với Mỹ, nói ra những điều trừng phạt mà
có người lo có thể xảy ra chiến tranh thương mại Mỹ – Trung… Trump phê phán cái trục xoay là nửa vời và gần như là chết yểu
thời Obama, những gì chính quyền này đã làm trên thực tế là vô hiệu hoá nó;
dùng TTP để bọc (contain) Trung Quốc là chuyện hão huyền; nước Mỹ tôn trọng một Trung Quốc nhưng không thể trói buộc Mỹ vào quy
định này… Trump chủ trương tăng cường lực lượng hải quân Mỹ lên 350 tầu chiến
(hiện nay là 274) để đối phó với Trung Quốc đẩy mạnh vũ trang và để bảo vệ
tuyến hàng hải Malacca… Đương nhiên còn phải chờ Trump nói thế nhưng sẽ làm
được tới đâu, nhưng trước mắt người ta thấy cuộc điện đàm mấy phút của Trump
với Thái Anh Văn có lẽ khiến Trung Quốc đau đầu hơn những gì mà cái trục xoay
của H Clinton đã làm trong nhiều năm tháng.
Một bóng dáng khác của hiện tượng “peace through
strength” là nội các đang được thành lập của Trump gồm khá đông các tỷ phú và
các tướng quân sự diều hâu. Ngay tại Mỹ không ít ý kiến lo lắng gọi đấy là một
dạng nội các thân hữu (a crony cabinet) chưa hề có trong lịch sử nước Mỹ, đặt
câu hỏi: Trump quyết đoán, hay là liều mạng? Thành công hay thất bại gần như là
50/50!
Dưới đây xin nêu lên một suy nghĩ về bộ 3 Mỹ – Nga –
Trung trong bức tranh thế giới hôm nay.
Những gì đã nói ra lời và việc bố trí nhân sự đến
nay cho thấy chiều hướng Trump muốn cải thiện quan hệ với Nga – bao gồm cả việc
kéo Nga ra xa Trung Quốc, để dồn nỗ lực ứng xử cứng rắn với Trung Quốc. Lý do
có thể là:
– Nga đang có nhu cầu cải thiện quan hệ với Mỹ để giữ
được thế mạnh đã lấy lại được và tìm đường sớm ra khỏi những khó khăn nhiều mặt
hiện nay.
– Mỹ có nhiều lợi thế để thoả hiệp đi tới hợp tác với Nga
trong chia nhau ảnh hưởng ở Trung Đông, qua đó có thể cùng với Nga kiềm chế Thổ
và Iran, đồng thời tìm cách san bớt gánh nặng của Mỹ ở Trung Đông cho Nga. Khả
năng này là hiện thực đối với cả Mỹ và Nga, nhất là trong bối cảnh hiện nay Nga
cần ưu tiên củng cố vị thế mới giành được ở Trung Đông vừa qua và cần đẩy mạnh
đòi giải toả cấm vận, hơn là phân tán lực của mình cho bành trướng ảnh hưởng
tại những nơi khác.
Như vậy là có sự gặp nhau giữa hai bên ở thời điểm này.
– Nếu hợp tác Mỹ – Nga được tạo ra như vừa trình bầy,
căng thẳng hiện nay giữa NATO và Nga sẽ giảm bớt, điều mà cả Trump và Putin đều
muốn, cả hai đã công khai ngỏ ý sẵn sàng cho triển vọng này. Giả định nếu hợp
tác này phát triển xa nữa, chi phối bàn cờ thế giới trong tình huống nào đó sẽ
không hẳn chủ yếu là do quan hệ Mỹ – Trung chi phối, mà có thể sẽ là do cuộc cờ
tay 3 Mỹ – Nga – Trung; trong trường hợp này thế giới có thể sẽ dễ thở hơn đối
với Frankenstein Trung Quốc. Nỗ lực của Trump theo hướng này hợp với logic và
có lý về nhiều mặt – cả trên phương diện Nga có văn hoá gần gũi với phương Tây.
Đương nhiên, trong cuộc đấu tay 3 như thế, một khi một
bên đổi cách chơi với một bên khác trong cỗ máy bộ 3 này, các nước bên thứ ba
hữu quan sẽ có những việc phải vắt chân lên cổ mà chạy nếu như không tự tại sẵn
cho mình khả năng dĩ bất biến ứng vạn biến. Đây
cũng sẽ là vấn đề trực tiếp liên quan đến vận mệnh của Việt Nam.
– Trung Quốc đang gây tổn hại lớn cho kinh tế Mỹ, đã tạo
ra chỗ đứng khó đảo ngược trên Biển Đông, uy hiếp nặng nề các nước trong vùng
(một phần còn do phản ứng của các nước trong vùng quá yếu), đang muốn lấn nữa
lên biển Hoa Đông, lâu dài muốn uy hiếp hay kiểm soát con đường hàng hải
Malacca. Thời gian đang ủng hộ Trung Quốc đi theo hướng này nếu Mỹ cứ tiếp tục
ngập ngừng như những năm qua. Trung Quốc hiện nay có thể ăn miếng trả miếng
nhất định với Mỹ, chủ yếu trong kinh tế, song hầu như không thể trong quân sự.
Trung Quốc có thế mạnh tuyệt đối so với các nước trong khu vực, song không phải
vì thế mà muốn làm gì cũng được tại đây. Từ 02-1979 đến nay đã có một số ví dụ chứng minh như vậy. Hiện nay
Myanmar và Mông Cổ là hai ví dụ đáng học hỏi trong độc lập với Trung Quốc trên
một số phương diện. Trung Quốc đang tiềm tàng những khủng hoảng lớn trong nội
trị và kinh tế, không có nhiều đồng minh, và dễ bị cô lập trong thế giới nếu
hiếu chiến. Nghĩa là khả năng bị chấn thương không nhỏ nếu Trung Quốc dùng bạo
lực quân sự áp đặt ý muốn của mình. Hơn nữa, hiện tại Trung Quốc vẫn không thể
đọ được với Mỹ về mọi mặt. Mối nguy lớn nhất từ phía Trung Quốc cho đến nay vẫn là quyền lực rắn của kinh tế mở
đường và hậu thuẫn cho quyền lực mềm Trung Quốc lũng đoạn đối phương – nhất là
trong khu vực Biển Đông.
– Có thể Trump cho rằng đã đến lúc phải chặn đứng xu thế
bá quyền nói trên của Trụng Quốc trước khi quá muộn, hiện nay như thế là muộn.
Đến lúc này Mỹ còn nhiều phương tiện trong tay – kể cả so sánh thực lực, vấn đề
Đài Loan… – để chặn đứng xu thế Trung Quốc lấn tới.
– Trong các đồng minh của Mỹ, nổi lên là Nhật đã sẵn sàng
thích ứng với bước ngoặt mới này của thế giới: những năm gần đây đã vươn lên tự
chủ về quốc phòng – bao gồm cả những nỗ lực đang diễn ra cho vận động việc sửa
đổi hiến pháp, xúc tiến những bước đi mới củng cố khả năng tự phòng vệ, tháng
11-2016 phê duyệt quân đội Nhật tham gia các hoạt động cứu trợ gìn giữ hoà bình
của Liên hiệp Quốc; đẩy mạnh phát triển những mối quan hệ trong khu vực. Đáng
chú ý là Nhật đã chủ động làm dịu tranh chấp với Nga chung quanh vấn đề quần
đảo Kuril (Chishima). Bất chấp ngăn cản của Obama và G7 (liên quan đến
cấm vận), thủ tướng Abe tháng 5-2016 đã chủ động thăm Nga đặt vấn đề cải thiện
quan hệ. Tháng 12-2016 Abe gặp Putin lần thứ 2, tạo ra triển vọng ký kết hiệp
định hoà bình thời hậu chiến, đẩy mạnh hợp tác kinh tế hai nước. Báo chí bình
luận tư duy mới của Abe đang làm tan băng quan hệ Nhật – Nga. Ngày 17-11-2016
Abe đã gặp Trump ngay sau khi Trump đắc cử, khẳng định đẩy mạnh quan hệ Nhật – Mỹ
sắp tới. Có thể nói Nhật đã chủ động trước bước ngoặt, sẵn sàng đảm nhiệm vai
trò khu vực của mình, đang cố gắng ở mức cao nhất đối phó với leo thang của
Trung Quốc trên biển Hoa Đông, đồng thời tiếp tục thuyết phục Trung Quốc gìn
giữ hoà bình (găp gỡ Abe – Tập Cận Bình tại Peru 11-2016 nhân dịp họp cấp cao
APEC).
– Trong tầm nhìn có thể lượng trước được – ví dụ đến giữa
thế kỷ này, hầu như khó/không có thể xảy ra tình huống Nga và Trung Quốc chuyển
sang chế độ dân chủ hoặc sụp đổ do khủng hoảng, càng không có chuyện Mỹ sẽ sụp
đổ vào thời điểm này như có người nghĩ. Nghĩa
là trong khoảng thời gian
lượng định được ấy, bộ 3 Mỹ – Nga – Trung vẫn là các diễn viên chính trên sân
khấu thế giới với những quan hệ chồng chéo nhau rất phức tạp và đầy biến động.
Trong khi đó EU quá bận rộn với chính mình, hoặc có thể xuất hiện thêm các
trường hợp “exit” khác.
– …
Trump thắng cử không phải là thánh nhân và có phép
tiên. Ông ta chỉ là người đã thấy được cái lối mòn tai hại của nước Mỹ và cả
gan muốn loại bỏ nó, bằng những ý định rõ ràng. Mọi việc Trump đã nói ra
đúng/sai, khả thi hay không khả thi, thực hiện được đến đâu, thành bại ra sao,
trả giá thế nào…tất cả còn ở phía trước. Trong một loạt vấn đề thuộc các lĩnh
vực kinh tế, nội trị – đặc biệt là vấn đề người nhập cư, tăng cường quốc phòng…
có thể dự báo Trump quyết làm tới mức cho phép, như đã nói ra trong tranh cử,
bởi vì đó là con đường bắt buộc phải đi để tăng cường thực lực của Mỹ.
Song trong hàng loạt các vấn đề song phương / đa phương,
Trump sẽ gặp không ít khó khăn ngay tại nước Mỹ lúc này – ví dụ: những vấn đề
kinh tế và nội trị, vấn đề Israel/Palestine, vân vân.., và trong các đồng minh
của mình – ví dụ các vấn đề của NATO/Nga, NAFTA, vấn đề Nga ở Baltic và Trung
Đông, vân vân… Đồng thời các đối thủ của Mỹ – trước hết là Trung Quốc và Nga –
đều không ít tham vọng, sự kháng cự hay đối phó sẽ là quyết liệt và sảo quyệt
mà chắc gì Mỹ đã hơn được, cứ xem Nga tại Syrie và Trung Quốc tại Biển Đông thì
đủ rõ. Nhiều khả năng Mỹ thời Trump sẽ tạo ra được những bước đi đột phá –
trước hết là trong quan hệ với Nga, song cái giá phải trả sẽ không nhỏ trong
căng thẳng kinh tế với Trung Quốc và vấn đề Đài Loan – để xem Trump có giá trả
giá hay không, sẽ không ít biến động và tác động đối với cả thế giới, đặc biệt
là các nước bên thứ ba…
Sự phát triển của Mỹ không phải chỉ góp phần mình tạo ra
bước ngoặt này của thế giới, mà chính nước Mỹ – dù hiện thời mới chỉ là một nửa
nước Mỹ đã bầu Trump, cũng đã lựa chọn đi vào bước ngoặt này của thế giới hôm
nay, chấp nhận những rủi ro hoặc cơ may khó lường một cách rất Mỹ. Mặc dù kinh
tế Mỹ sau bầu cử vẫn đang trên đà tốt, báo chí Mỹ đặt câu hỏi: Năm 2017 sẽ là
năm của những mong đợi hay sợ hãi?
Không nước nào có thể lựa chọn được thế giới. Nhưng thế
giới sẽ lựa chọn sự ứng xử của mỗi nước, không sót một ai.
Trong bước sang trang này của thế giới có nhiều dấu ấn
của sự xuất hiện những nhân vật nổi bật như cặp đôi người hùng Trump – Putin
đang dẫn cuộc chơi lớn (Harald Biermann – Đức), như Abe nhạy bén một cách chính
xác tạo ra một thế cờ mới cho Nhật và trong khu vực, như một loạt các nhân vật
cực hữu ở nhiều nước Tây Âu muốn ra khỏi trì trệ hiện nay, như các thủ lĩnh của
những quốc gia sẵn sàng ứng phó với cục diện mới như Đức, Ấn Độ, Úc, Singapore,
Indonesia… Tất cả hình như đang nói lên bàn cờ thế giới chỉ dành chỗ cho những
quốc gia thức với bước ngoặt này, không kể lớn nhỏ
và trình độ phát triển. Nếu đứng ngoài hoặc không có cách gì tham gia được vào
bàn cờ, nhiều khả năng nhất là sẽ trở thành quân cờ.
Trung Quốc đang kín tiếng. Đến nay, ngoài phát biểu của
Tập Cận Bình đã nói với báo chí ở Peru nhân dịp họp cấp cao APEC 11-2016 và sự
phản đối của ngoại trưởng nước này về cuộc điện đàm phá lệ, chỉ có báo chí xỉ
vả Trump, kèm theo là cảnh báo sẽ dùng quân sự chiếm Đài Loan và sẽ cho Mỹ nếm
biết sức mạnh quân đội Trung Quốc. Báo chí đưa tin hàng không mẫu hạm Liêu Ninh
và thê đội chiến hạm hộ tống đang đi tiếp về Biển Đông, nhiều tên lửa đang được
tập kết xuống Hải Nam để bố trí tại các đảo đã lấn chiếm ở Hoàng Sa, Trường Sa.
Mặc dù vậy, gần đây Trump vẫn nói sẽ cân nhắc việc gặp Thái Anh Văn (đòn cân
não?).
III. Phần
kết: Một số điều rút ra
Thế giới được chứng kiến một bi hài kịch chưa từng thấy
trong kịch sử Mỹ: Trong khi Obama tận dụng những ngày nắm quyền cuối cùng của
mình thực hiện một số việc mà báo chí Mỹ gọi là đặt chướng ngại vật gây khó cho
Trump khi lên nắm quyền – như vận động hai viện của Mỹ thông qua đạo luật cấm
khai thác dầu và đá dầu vùng Bắc Cực để chống lại chính sách năng lượng của
Trump… thực hiện trừng phạt Nga về cyber hack.., thì Putin lại cao giọng bỏ qua
không chấp vặt, nói ngay: Nga không cần trả đũa. Trump cũng khen Putin ngay lập
tức: như thế là thông minh, để cùng nhau lo việc lớn! Câu chuyện diễn ra nhanh
hơn chớp mắt, New York Time / NEIL MacFARQUHAR 31-12-2016 viết: Với Trump, ngày thứ năm Nga là kẻ
thù của Mỹ, ngày thứ sáu Nga là bạn của Mỹ (ngày thứ năm 29-12-2016 Obama ban bố
việc trừng phạt Nga về cyber hack, ngày thứ sáu 30-12-2016 Trump khen Putin).
Hình như Trump và Putin đang là hai chính khách khuấy đảo
lớn sân khấu chính trị thế giới? Ít nhất thì một cú hích đã xảy ra thúc đẩy
quan hệ Mỹ – Nga. Ít nhất Mỹ, Nga và EU đang có chung mối lo nóng bỏng về Trung
Đông/Bắc Phi, IS, nạn di cư. Phải chăng đây là một sự chuyển động mới về tập
hợp lực lượng cho mối lo chung này? Tất cả đang nói lên thế giới hôm nay không
phải là thế giới hôm qua, với một vận tốc chóng mặt của chuyển đổi, với những
thay đổi phá mọi trật tự và quan niệm đang tồn tại, với tính quyết liệt “Hoặc
là – hay là,,!” (“either – or!” – “entweder – oder!”) không khoan nhượng với
bất kỳ quốc gia nào!
Đương nhiên, một sân khấu thế giới với 3 diễn viên chính
là Mỹ – Nga – Trung đang là một thực tế hiện hữu. Mối nguy Frankenstein Trung
Quốc có thể đem lại cho thế giới, nhất là cho khu vực Đông Nam Á không phải là
sự tưởng tượng.
Song cân nhắc mọi bề, kể cả tình hình nội trị Trung Quốc,
có thể đánh giá (a) Trung Quốc dù sắp tới có GDP sẽ vượt Mỹ, nhưng thời kỳ
Trung Quốc thoả sức vơ vét lợi nhuận và tài nguyên trên thị trường thế giới
theo kiểu à la chinoise đã qua rồi, vì nhiều nước không thể
khoanh tay chấp nhận; (b) hầu hết các nước công nghiệp phát triển đều phải quan
tâm xử lý những hệ quả xấu trong kinh tế nước mình do làm ăn với Trung Quốc,
mặc dù thị trường Trung Quốc trước sau vẫn quan trọng đối với họ; (c) bản thân
Trung Quốc cũng phải quan tâm nhiều hơn đến phát triển hướng nội, trước hết vì
những lý do vừa nêu và vì nhiều đòi hỏi phát triển khác bên trong Trung Quốc;
(d) đặc biệt quan trọng là toàn cầu hoá kinh tế ở nấc thang hiện nay – nhất là
cách mạng công nghiệp 4.0 đang dẫn đến những thay đổi đột phá mới trong sản
xuất và kinh doanh – với đặc điểm là ngày càng nhiều sản phẩm mới, sản phẩm
thay thế mới và những dịch vụ mới, đồng thời cũng làm xuất hiện những nhu cầu
mới (demand side) … – thực tế này đòi hỏi mọi quốc gia phải thay đổi quyết liệt
cơ cấu kinh tế của mình, kể cả Trung Quôc. Ngay trước mắt lao động cơ bắp ngày
càng thu hẹp, công nghệ lạc hậu và ô nhiễm môi trường đang bị loại bỏ không
thương tiếc… Có thể nhân định:
Trong bước ngoặt này của thế giới các nguy cơ Trung Quốc còn nguyên vẹn – nhất
là đối với khu vực Đông Nam Á, nhưng
Trung Quốc không mạnh lên. Trong bối cảnh như vậy, khả năng một Trung Quốc
hiếu chiến bá quyền bị chấn thương hoặc thậm chí bị trừng phạt sẽ ngày càng
lớn. Thế giới vẫn dành chỗ cho một Trung Quốc phát triển có trách nhiệm với thế
giới.
Mỹ với Trump không còn TPP nữa, đáng tiếc, song không
phải là tổn thất chết người đối với nước ta. Nếu nhìn rõ bước ngoặt thế giới
sang trang hôm nay, nước ta nên coi đây là một thách thức quyết liệt, đòi hỏi
ráo riết phải nâng cao khả năng cạnh tranh. Xin nói hình ảnh thế này: Có TPP,
nước ta phải nỗ lực 1. Không có TPP nước ta phải nỗ lực 2 nếu muốn sống sót,
tồn tại được và phát triển tiếp. Có con đường nào khác không? Hiện nay năng
suất lao động của nước ta đã đứng gần bét ASEAN – một lao động Singapore làm ra
của cải bằng 23 lao động Việt Nam, năng suất lao động nước ta 20 năm nữa mới
đuổi kịp Philippines hôm nay, 50 năm nữa mới đuổi kịp Thái Lan… Sống chết phải cải
cách thể chế chính trị, kiện toàn đất nước mọi mặt, để khắc phục sự tụt hậu
này. Bởi vì trong thế giới hôm nay, tụt hậu này dẫn tới ách nô lệ tự chuốc lấy,
nước ngoài không cần động tay!
Cả thế giới đang đứng trước một keo vật Mỹ – Trung có thể
là quyết liệt trong quan hệ song phương về kinh tế và về vấn đề Đài Loan, chưa
nói đến những tác động phức tạp của những vấn đề khác trong quan hệ đa phương.
Dứt dây động rừng, sóng gió chắc chắn sẽ va đập vào ĐNÁ – trong đó có nước ta.
Nước ta sẽ chịu vật vờ theo sóng gió, hay là phải tồn tại và đứng vững được
trong sóng gió hôm nay? Nước ta phải tìm câu trả lời – hoặc sống hoặc chết!
Xin nhớ cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ra đời sau chiến
tranh thế giới II ngay lập tức đã bị các đế quốc cự tuyệt, phủ nhận, quyết xoá
bỏ. Hệ quả là đất nước ta bị đẩy vào cái cối xay thịt của thế giới 2 phe 4 mâu
thuẫn không cưỡng lại được, với mọi hệ luỵ đau khổ cho đến hôm nay vẫn chưa
thoát ra được – như đã nói trong phần I. Kinh nghiệm xương máu ấy chẳng lẽ vô
nghĩa đối với chúng ta lúc thế giới bước sang trang hôm nay?
Khác với nước VNDCCH hồi ấy chìm đắm trong những cuộc
chiến tranh bị thế giới 2 phe 4 mâu thuẫn dồn vào, hôm nay Việt Nam là một nước
độc lập, thống nhất, có chủ quyền, có sản phẩm bán tại khắp thế giới, có hầu hết
những nước quan trọng trên thế giới là các đối tác chiến lược hoặc đối tác toàn
diện, có triển vọng trở thành một nền kinh tế giầu mạnh ở Đông Nam Á. Song tất
cả những điều tốt đẹp này không tự nó giúp nước ta tránh được số phận như đã
từng bị đẩy vào sau chiến tranh thế giới II, nếu trong thế giới sang trang hôm
nay nước ta không tự đứng lên giành lấy cái quyền tự định đoạt lấy vận mệnh của
mình, dứt khoát không bám đuôi ai, cũng không bán linh hồn cho ai, cũng không
buông tay hay tự trói mình trước bất kỳ bạo quyền bên ngoài nào! Cái quyền tự
quyết định ấy phải đấu tranh
thường xuyên bất kỳ lúc nào mà giành lấy! Đời này chẳng có gì và cũng không
khi nào có gì cho không cả – như tôi đã viết trong bài 4!
Khác với VNDCCH sau chiến tranh thế giới II, – chúng ta
hồi ấy vừa không đủ thông tin – nghe gì biết vậy, nói gì theo vậy, ngoài bầu
nhiệt huyết được hun lên hầu như cũng chẳng được lựa chọn gì. Cái thế giới 2
phe 4 mâu thuẫn cứ khoác lên nước ta cái nó muốn như là một định mệnh. Ngày nay
chúng ta sống trong biển cả mọi thông tin cần thiết để hiểu được thế giới này
và sự vận động của nó, có trí tuệ và kinh nghiệm của nhân loại đủ để cho chúng
ta tiếp thụ, học hỏi, tự khai minh chính mình để tìm ra cho mình và cho đất
nước con đường hôm nay phải đi. Hơn thế nữa, ngày nay chúng ta vừa có quyền,
vừa có điều kiện thực hiện sự lựa chọn của mình.
Nhưng có thực là chúng ta đang sử dụng cái quyền và những
điều kiện này không? Hay là chúng ta đang vứt bỏ chúng? – chỉ vì mọi sự vô
minh, hèn kém và sợ hãi? Hay là chúng đã/đang bị tước đoạt khỏi chúng ta? – bị
tước đoạt và tước đoạt nhau ở phạm vi từng cá nhân không phân biệt bất kỳ ai.
Và bị tước đoạt ở cả tầm vóc quốc gia!
Hôm nay, nếu một lần nữa để đất nước ta rơi vào vòng nô
lệ tự chuốc lấy, mỗi người Việt chúng ta dù là ai chỉ có thể buộc tội chính
mình, không thể đổ lỗi cho ai khác được! Quyền và tiền càng nhiều, tội càng
lớn! Trong những bài viết năm 2015 góp ý với Đại hội XII ĐCSVN, tôi cũng đã nói
rõ: Để đất nước có nhiều khó khăn, bê bối như hiện nay không một đảng viên nào
vô can! – trong đó có tôi. Độc lập quốc gia có được hơn 40 năm rồi, song đấy
không phải là sự bảo đảm mặc nhiên cho phép nước ta miễn nhiễm khỏi cái ách nô
lệ tự chuốc lấy ấy. Ngày hôm nay, cái lệ thuộc và phụ thuộc vào bên ngoài đang
từng phút từng giờ gặm nhấm cái độc lập quốc gia chúng ta đang gìn giữ, đang xô
đẩy không ngừng nghỉ nước ta vào cái ách nô lệ tự chuốc lấy! Sự tha hoá này
chẳng kiêng tha cái gì của đất nước chúng ta!
Những gì đất nước chắt chiu xây dựng nên được 40 năm nay
phải trả cái giá đắt lắm, phải cố gìn giữ để phấn đấu tạo sức đi tiếp. Hay là
cam chịu để cho chế độ chính trị của đất nước tha hoá tiếp? Đành khoanh tay chờ
đến một ngày nào đó ruỗng mục sẽ dẫn tới tự sụp đổ trong cảnh nồi da xáo thịt?
Đã có những suy nghĩ như vậy trong lòng đất nước, bởi vì mất niềm tin ĐCSVN có
thể cải cách đổi đời cứu nước và thay đổi chính mình! Giữa lúc đất nước đang
tìm đường bước vào quốc gia khởi nghiệp với nhiều hy vọng! Giữa lúc đất nước
đang ngấp nghé bên miệng hố chiến tranh của khu vực và sự can thiệp ngày càng
nguy hiểm của bên ngoài! Giữa lúc hoà bình ở Đông Nam Á và bạn bè khắp thế giới
mong mỏi có một Việt Nam góp phần xứng đáng vào an ninh, ổn định và phát triển
của khu vực… Có cam chịu như thế không?
Đi tiếp trên con đường mòn đang đi bốn chục năm nay sẽ
không chỉ có chuyện năng suất lao động tiếp tục tụt hậu. Nguy hiểm hơn nữa là
mọi thành quả chắt chiu được và chế độ chính trị của đất nước đang lừng lững
tiến về hướng tự sụp đổ – vì những nguyên nhân bên trong và vì sóng gió từ bên
ngoài tại bước ngoặt hôm nay của thế giới. Có phải như vậy không? Làm gì chặn
đứng lại cái chết từ từ nhưng lừng lững như ung thư này?
Hôm nay nước nào đi tiếp trên con đường món cũng chết, kể
cả Mỹ (xin đọc lại bài 1). Đã đến lúc phải tự dứt mình ra khỏi cơn mê ngủ
hiện nay để nhìn nhận lại tất cả. Ví dụ, mê ngủ đến mức Bộ trưởng công thương
đang cả quyết đến cùng bảo vệ thép Cà Ná, cho rằng nó an toàn với môi trường.
Giả thiết rằng nó an toàn thật và Bộ trưởng không tư lợi, thi Bộ trưởng vẫn sai
nghiêm trọng về chiến lược, ở chỗ dự án này sẽ tiếp tục kéo đất nước lùi sâu
thêm vào công nghiệp của sản phẩm hạ nguồn, tiếp tục biến nước ta thành bãi
thải công nghiệp cho bên ngoài – giữa lúc nước ta có mật độ dân sô cao nhất
châu Á và đang vô cùng thiếu không gian và môi trường sinh sống, giữa lúc thế
giới đã bước vào thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0. Nếu cho rằng Cà Ná không
còn gì hơn là làm thép để mà sống thì càng mê ngủ nữa! Đất nước đang đầy rẫy
những cái mê ngủ như thế! Nhất là trong hệ thống chính trị và trong bộ máy quản
trị quốc gia, trong quan điểm phát triển – đặc biệt là trong tôn trọng các
quyền của dân, mê ngủ không thể tưởng tượng được – không hiếm trường hợp nhìn
dân thành địch! Hơn ai hết, Việt Nam rất cần hoà bình, hữu nghị, có sự tôn
trọng lẫn nhau về độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, hợp tác bình
đẳng cùng có lợi với Trung Quốc. Muốn lắm! Muốn đời đời chứ không phải nhất
thời. Nhưng mê ngủ thế này thì không bao giờ có được! Vân vân…
Phải làm gì và làm thế nào? Câu trả lời tôi đã xới
lên trong phần kết của bài 1, xin hứa sẽ suy nghĩ tiếp.
Tới đây chỉ xin nói thêm về ĐCSVN.
Dù ai nói ngả nói nghiêng, như đã viết trong bài 1
– trước sau tôi vẫn kiên trì cho rằng ĐCSVN có trách nhiệm đạo đức chính trị và
đồng thời có trách nhiệm ràng buộc pháp lý về việc phải làm như đã ghi trong
Hiến pháp. Đó là phải đứng lên thực hiện cuộc cải cách toàn diện, đưa đất nước
ra khỏi đường mòn để bước vào thế giới sang trang hôm nay. Bởi vì đây là đảng
duy nhất đang nắm trong tay vận mệnh đất nước. Làm được hay không – sẽ có nghĩa
là còn Đảng hay không?! Xin lưu ý: Giả thiết trong kháng chiến chống Mỹ, ĐCSVN
không làm được vai trò lãnh đạo cuộc kháng chiến này, ĐCSVN còn tồn tại hay
không? Trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước hôm nay ĐCSVN cũng phải như
vậy thôi!
Suy nghĩ này của tôi dựa trên lý trí – vì không như thế
sẽ chỉ có bạo loạn, lật đổ, sụp đổ do mọi tác nhân bên trong và bên ngoài. Suy
nghĩ này của tôi dựa trên pháp lý – bởi vì đã giành lấy về mình quyền lãnh đạo
đất nước như ghi trong Điều 4 của Hiến pháp, thì ĐCSVN phải nghiêm túc hoàn
thành trách nhiệm đưa đất nước đến độc lập, tự do, hạnh phúc như đã ghi trong
phần lời nói đầu của Hiến Pháp. Nếu không hoàn thành được, thì không còn quyền
ấy nữa. Quyền bao giờ cũng phải ràng buộc với trách nhiệm. Chính trách nhiệm ấy
là “cái lồng” của quyền lực, không phải tìm kiếm ở đâu xa xôi cả, mà chỉ có dám
hay không dám thực hiện sự ràng buộc pháp lý này mà thôi. Trước khi để nhân dân
phán xét mình có hoàn thành trách nhiệm này hay không, ĐCSVN phải nghiêm túc tự
phán xét mình trước. Nói tự phê bình và phê bình mà không tự thực hiện sự ràng
buộc pháp lý này là vô nghĩa và vô đạo đức.
Suy nghĩ này của tôi còn dựa trên tình nghĩa máu mủ người
dân trong một nước, không thể để đất nước này phải mất thêm một giọt máu vô
ích, phải hoà giải đoàn kết cùng nhau gìn giữ, xây dựng giang sơn đất nước này!
Suy nghĩ này của tôi hình thành từ mối gắn bó tình nghĩa
giữa Đảng và tôi, các anh chị em con cháu tôi, và các bậc cha chú trong gia
đình tôi đã đi theo Đảng từ trước Cách mạng Tháng Tám. Thời kháng chiến chống
Mỹ cha mẹ tôi có 5 con, dâu, rể là bộ đôi, trong đó 4 trực tiếp ra chiến
trường. Cho đến hôm nay trong tôi vẫn có những người thầy là đảng viên cho tôi
những bài học làm người.
Suy nghĩ này của tôi xuất phát từ nhận thức được ơn nghĩa
ĐCSVN phải ghi tâm về những công lao và hy sinh xương máu không kể siết của
nhân dân bảo vệ Đảng kể từ thời trứng nước cho đến khi đưa Đảng lên thành người
chiến thắng.
Suy nghĩ này của tôi được vắt ra từ nỗi đau: Đảng trong
tim tôi và Đảng ngoài đời hôm nay là 2 Đảng khác nhau mất rồi! Tôi tự bắt mình
có nghĩa vụ đảng viên phải góp phần xây dựng lại Đảng của mình – làm hết mình
trước khi phải chấp nhận nhân dân sẽ có sự lựa chọn khác. Trải qua 4 cuộc kháng
chiến trong đời mình, tôi không thể chấp nhận đất nước ta lại một lần nữa phải
đầu rơi máu chảy.
ĐCSVN phải làm gì? Làm thế nào?
Tôi nghĩ, kể từ Tổng bí thư cho đến đảng viên thường, mỗi
người nên tự hỏi và tự tìm câu trả lời. Không ai được trốn tránh việc phải làm
này trước bước ngoặt của thế giới hôm nay! Chí ít xin tham khảo và tự trả lời
cho những câu hỏi đã nêu ra trong bài viết này. Rồi công khai trước toàn dân về
hỏi và trả lời đã thực hiện. Đảng muốn đi với dân và muốn lãnh đạo thì nên làm
như vậy. Bàn bạc với dân sẽ có tất cả cho việc khai phá con đường phát triển
mới của đất nước.
Xin nhớ cho, một đặc điểm quan trọng của bước ngoặt thế
giới hôm nay là sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc ở rất nhiều quốc gia. Đây
không phải là một hiện tượng hoài cổ, mà là một phản ứng tự nhiên không tránh
được do sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt hôm nay. Chủ nghĩa dân tộc lên cao
lúc này ở các cường quốc dù tại các châu lục nào cũng đều hàm chứa mối nguy cho
lân bang và thiên hạ, cứ nhìn sự vươn lên của Trung Quốc sẽ thấy.
Hơn lúc nào hết tinh thần dân tộc của Việt Nam phải được
dấy lên, được trang bị ý chí và trí tuệ đủ cho phép nhân dân ta làm chủ được
vận mệnh đất nước trong bước ngoặt này của thế giới, xin dứt khoát cùng nhau thề với
trời đất không chịu lặp lai con đường đau khổ của đất nước ta thời thế giới
sang trang sau chiến tranh thế giới II!
Đến giờ phút này tôi vẫn nghĩ ĐCSVN còn kịp và còn đủ
điều kiện trong tay, vẫn đang có cơ hội đối nội/đối ngoại thực hiện thành công
nhiệm vụ cải cách đưa đất nước ra khỏi đường mòn để bước vào thời kỳ phát triển
mới. Chỉ còn chưa tìm thấy ý chí của ĐCSVN thực hiện nhiệm vụ này. Như vậy,
ĐCSVN phải thay đổi chính mình để quyết đi đến cùng với dân tộc. Đừng để cho
nhân dân phải thực hiện sự lựa chọn khác!
Hà Nội, 04-01-2017
_____
[1] Nguyễn Trung: Bài 1: Hiện tượng Trump và Việt
Nam — Bài 2: Suy nghĩ về
quốc gia khởi nghiệp; bài 3: Thế giới đã sang trang và
những vấn đề đặt ra cho Việt Nam — Bài 4: “Đời không có gì cho không. Sống thì không được ăn không!”
[2] Nhận định như vậy về nội dung cuộc
kháng chiến của Việt Nam chống Mỹ xâm lược ray rứt tôi từ lâu, với kết luận đau
lòng: Cái giá nhân dân ta phải trả cho độc lập thống nhất đất nước đắt quá!..
Song suy nghĩ này quá nhạy cảm, còn tôi thì quá hèn nhát. Do đó một thời gian
dài tôi chỉ dám đề cập tới một cách gián tiếp. Suy nghĩ này là một trong những
thôi thúc quan trọng nhất khiến tôi lựa chọn cách viết tiểu thuyết Dòng đời để giãi bầy
suy nghĩ của mình. Trong tập II (Quyển 1) của bộ tiểu thuyết Dòng đời, trang 496 – 499, lần đầu tiên tôi viết ra đầy đủ nhận
thức của mình về các cuộc chiến tranh trong lòng cuộc kháng chiến của Việt Nam
chống Mỹ xâm lược như đã trình bầy trên. Tìm xem: Nguyễn Trung, tiểu thuyết Dòng đời, NXB Văn Nghệ, 2006 – Thành
phố Hồ Chí Minh.
[3] Những khái niệm mới này phản ánh được
một phần sự thật khách quan đang diễn ra – cả thế giới là một thị trường, nền
kinh tế của hầu hết mọi quốc gia đều là kinh tế thị trường ở các nấc phát triển
khác nhau; tuy nhiên cuộc sống luôn luôn vượt ra ngoài khuôn khổ của mọi khái
niệm.
[4] Không thừa nhận như vậy, ví dụ làm sao
cắt nghĩa được một loạt các nước như Mỹ, Pháp, Nhật… có nhiều vấn đề với Việt
Nam trong lịch sử, ngày nay lại trở thành đối tác chiến lược, đối tác toàn diện
của nước ta? Làm sao giải thích được Việt Nam và Trung Quốc đều là 2 nước XHCN
(trên danh nghĩa) song lại đang có nhiều vấn nóng bỏng với nhau nhất? V… v…
[5] Năm 2013 Thomas Piketty (Pháp) xuất
bản cuốn “Capital in the 21st century”,
với các số liệu sưu tầm rất công phu. Từ xem xét vấn đề tư bản (capital – vốn)
ông đưa ra những nhận định có lý lẽ về những bất công mới trong nền kinh tế
toàn cầu, nhất là trên phương diện phân bổ thu nhập. Ông cho rằng nguyên nhân
cơ bản là tỷ lệ tăng trưởng của lợi nhuận vượt quá xa tỷ lệ tăng trưởng của
kinh tế toàn cầu, do đó đề xuất quan điểm cần phải thiết kế một hệ thống thuế
thu nhập toàn cầu.
[6] Commonwealth of Independent States –
CIS, được thành lập ngay sau khi Liên Xô sụp đổ 1991.
[7] Đã trình bầy trong bài 1 và bài 3,
tham khảo thêm: Peter Navarro, Nov 07-2016, “Donald Trumps’s Peace through
Strength – Vision for the Asia-Pacific”.