Nguyễn Quang Duy
Thứ năm 22/11/2018 nhật báo TAZ của Đức bình luận về việc Hà Nội trục xuất cô Lê Thu Hà như sau:
“Lê Thu
Hà là công dân của nước Việt Nam, cô không có quốc tịch nào khác. Một quốc gia
khước từ, không cho công dân của mình nhập cảnh là một hành vi vi phạm Công
pháp quốc tế“.
Cô Hà
sinh ra và lớn lên tại Việt Nam, vì bất đồng chính kiến đã bị Hà Nội bắt bỏ tù
và sau đó trục xuất sang Đức.
Cô mong
trở về Việt Nam sống với mẹ già nhưng một lần nữa lại bị Hà Nội trục xuất phải
quay lại Đức.
Luật sư
Nguyễn Văn Đài cho biết, “cô Hà được Đức cấp giấy tờ có hiệu lực 3 năm ở Đức
bắt đầu từ ngày 1/11/2018 bao gồm sổ thông hành, giấy phép định cư, giấy phép
lao động nhưng cô ấy đã không nhận…”.
Như thế
là Chính phủ Đức thực hiện Công Ước 1954 về Quy chế “người không quốc tịch” trợ
giúp cô Lê Thu Hà.
Công ước
1954 về Quy chế người không quốc tịch yêu cầu chính phủ các nước bảo vệ người
không quốc tịch tối đa, hỗ trợ họ có giấy tờ đi lại, trợ giúp hành chính, công
ăn việc làm, giáo dục...
Thuật
ngữ “người không quốc tịch” là người không được coi là công dân của bất kỳ quốc
gia nào theo pháp luật hiện hành của quốc gia đó.
Công ước
1961 về Giảm bớt người không quốc tịch đề cập đến việc phải làm để giảm bớt số
người không quốc tịch, bao gồm quyền rời khỏi nơi bị truy bức cũng như quyền
trở về quê hương xứ sở.
Cả hai
Công ước 1954 và 1961 đều chưa được Hà Nội ký kết.
Một số
người dịch thuật ngữ “stateless person” thành “người vô tổ quốc” là không chính
xác.
Người
Việt có thể bị tước quyền công dân nước CHXHCN Việt Nam vì bất đồng chính kiến
hay vì các lý do khác thì vẫn là người Việt và tổ quốc Việt Nam vẫn là tổ quốc
của người Việt Nam.
Quyền
công dân nước CHXHCN Việt Nam rất khác nếu không nói là hoàn toàn khác với
quyền công dân tại miền Nam Việt Nam trước 30/4/1975 và tại các nơi khác trên
thế giới.
Trả
quyền công dân…
Tổng
Thống Trần Văn Hương đã chính thức từ chối nhận quyền công dân do nhà nước cộng
sản trả lại.
Câu
chuyện được chính ông Hương kể là vào đầu năm 1976 nhà nước cộng sản đã quyết
định trả quyền công dân cho ông.
Để tuyên
truyền họ cho tổ chức một buổi lễ “trả quyền công dân” ngay tại nhà ông, với sự
hiện diện của báo chí và các đài truyền thanh, truyền hình tại Sài Gòn.
Ngay
giữa buổi lễ, ông tuyên bố từ chối không nhận với lý do là còn hàng trăm ngàn
công chức quân nhân của Việt Nam Cộng Hòa, mà ông là cấp chỉ huy tối cao của
họ, vẫn còn đang học tập cải tạo và chưa được trả quyền công dân. Ông nói rõ
là:
“Chừng
nào những người tập trung cải tạo được về hết, chừng nào họ nhận được đầy đủ
quyền công dân, chừng đó tôi sẽ là người cuối cùng, sau họ, nhận quyền công dân
cho cá nhân tôi!”
Đầu năm
1976 nhà cầm quyền cộng sản cho tổ chức tổng kiểm kê dân số ở các tỉnh miền Nam
chuẩn bị cho cuộc bầu cử Quốc Hội chung cả nước ngày 25/4/1976.
Người
miền Nam phải điền một tờ đơn xin trả quyền công dân và một tờ khai sơ yếu lý
lịch.
Khi nhận
lá đơn nhiều người miền Nam mới hiểu ra rằng sau 30/4/1975 tất cả người miền
Nam đã thành “người không quốc tịch” ngay chính trên quê hương đất nước mình.
Mấy trăm
ngàn tù đi cải tạo khi ấy không được phát đơn, họ chỉ được làm đơn xin trả
quyền công dân khi đã được thả về một thời gian.
Nhiều
người miền Nam nhất là những người Việt gốc Hoa mặc dù đã nạp đơn nhưng không
được trao trả quyền công dân.
Cả trăm
ngàn người Việt gốc Hoa đã bị tống lên các con tàu ra đi “bán chính thức” để
nhà cầm quyền thu vàng và tài sản của họ. Nhiều người đã chết trên biển.
Hằng
triệu người Việt đã băng rừng vượt biển tìm tự do và đã được quốc tế đón nhận
như những người tỵ nạn cộng sản.
Trang sử
về người Việt “không quốc tịch” ngay chính trên đất nước Việt Nam khó mà quên
được.
Thanh
lọc công dân…
Công ước
1954 ra đời để giúp đỡ các nạn nhân bị nhà cầm quyền trục xuất như trường hợp
Hitler tước quốc tịch Đức, trục xuất và diệt chủng người Do Thái.
Trong
thời Chiến tranh Lạnh, Liên Xô và một số nước Đông Âu cũng tước quốc tịch và
trục xuất các nhà bất đồng chính kiến, các văn nghệ sỹ và người Do Thái ra
khỏi xứ.
Hằng
triệu công dân Liên Xô gốc Tatar bị cưỡng bách di dân và không được phép quay
trở lại quê hương của họ.
Tại
Kampuchia, khi cộng sản chiến thắng trục xuất và thảm sát hằng trăm ngàn người
Việt và người Chàm sống ở Miên. Đồng thời thực hiện thanh lọc và diệt chủng
công dân Miên.
Tại Nam
Tư sau khi cộng sản tan rã cũng xảy ra tình trạng thanh lọc chủng tộc.
Tại Cuba
ngày 6/4/1980, 7.000 người Cuba lao vào đại sứ quán Peru tại La Habana xin tị
nạn chính trị. Fidel Castro ra lệnh mở cảng Mariel và mở cửa trại tù cho bất kỳ
ai muốn rời Cuba được ra đi. Kết quả chỉ hơn 2 tháng có trên 125.000 người Cuba
đã di cư sang Mỹ.
Năm 1998
xung đột biên giới giữa hai nước Eritrea và Ethiopia, chính quyền Ethiopia đã
vây bắt hàng nghìn công dân và tống họ sang Eritrea với lý do họ thuộc nhóm
sắc tộc Eritrea.
Nhà cầm
quyền Miến Điện mở chiến dịch thanh lọc sắc tộc, khiến hơn 300.000 người Hồi
giáo Rohingya phải bỏ chạy sang Bangladesh hồi cuối tháng 8/2017.
Sau vụ
đàn áp đẫm máu ở Thiên An Môn tháng 6/1989, Trung Quốc cũng đã thanh lọc nhiều
công dân bất đồng chính kiến.
Gần đây
hằng triệu người Hồi giáo ở Tân Cương đã bị nhà cầm quyền Bắc Kinh tước quyền
công dân và đẩy vào những khu tập trung như đã từng xảy ra tại Việt Nam sau
30/4/1975.
Trên là
một số các trường hợp tạo ra tình trạng “người không quốc tịch” và người tỵ
nạn, hầu như đều xảy ra ở các nước độc tài hay cộng sản.
Quyền
công dân nước CHXHCN Việt Nam
Hà Nội
chính thức trục xuất nhiều công dân bất đồng chính kiến và không cho trở về
Việt Nam như trường hợp cô Lê Thu Hà.
Nhưng
chiếu theo Khoản 2 Điều 17 của Hiến Pháp 2013 thì “Công dân Việt Nam không
thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác.”
Khoản 4,
Điều 88 của Hiến pháp 2013 lại cho phép Chủ tịch nước quyền “tước quốc tịch
Việt Nam”.
Khoản 1
điều 31 Luật Quốc Tịch 2008 quy định về việc công dân CHXHCN Việt Nam bị tước
quốc tịch.
Ngày
24/4/2013, ông Phạm Văn Điệp một công dân Việt Nam sống ở Nga từ năm 1992,
nhưng không xin nhập quốc tịch Nga, khi về nước đã bị chận lại và trục xuất vì
"vi phạm pháp luật Việt Nam".
Ông
Điệp cho rằng chỉ có Chủ tịch nước mới có quyền tước quốc tịch của
ông, nhưng ông vẫn bị cảnh sát cơ động áp tải ra máy bay tống khỏi Việt
Nam.
Ông
Điệp từng tham gia đảng Dân chủ Việt Nam và có viết bài đăng trên Đàn
Chim Việt và Dân Luận.
Ông Điệp
là trường hợp thứ nhất được biết tương tự với trường hợp cô Lê Thu Hà.
Nhiều
trường hợp công dân nước CHXHCN Việt Nam khi đến tòa Đại Sứ xin gia hạn thẻ thông
hành (hộ chiếu) mới biết họ mất quyền gia hạn.
Một số
công dân Việt Nam khi về lại Việt Nam bị tịch thu giấy thông hành một hình thức
cấm xuất ngoại.
Một số
công dân Việt Nam khác mặc dù có thẻ thông hành nhưng bị cấm xuất ngoại.
Luật
pháp Việt Nam khá tùy tiện và như cố luật sư Ngô Bá Thành từng diễn tả “Việt
Nam có cả rừng luật, nhưng khi xét xử lại dùng luật rừng!”
Và giờ
đây Hà Nội lại sử dụng luật rừng với quốc tế.
Bởi thế
ngày 24/6/2014, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
quốc tịch Việt Nam năm 2008.
Khoản 2,
Ðiều 13 kêu gọi người Việt sống ở nước ngoài làm đơn xin giữ quốc tịch Việt
Nam. Trên 4 triệu người Việt sống ở nước ngoài chỉ có 6,000 người xin giữ quốc
tịch.
Chắc
chắn có nhiều người Việt chọn làm “người không quốc tịch” thay vì phải làm
người mang quốc tịch nước CHXHCN Việt Nam.
Quốc
tịch Úc
Úc có
truyền thống đơn tịch bắt đầu với Đạo luật Quốc tịch năm 1903 (Naturalization
Act 1903). Khi xin gia nhập Quốc tịch Úc, người đứng đơn không bị đòi hỏi bỏ
quốc tịch gốc.
Năm
2002, Đạo luật Tu chính Quốc tịch Úc bỏ quy định công dân Úc đương nhiên mất
quốc tịch Úc khi nhận quốc tịch của quốc gia khác. Nghĩa là Úc công nhận tình
trạng song tịch hoặc đa tịch.
Cuối năm
2015, chính quyền Liên Bang có tu chính Luật Quốc Tịch cho phép tước quốc tịch
Úc những người đã xin vào quốc tịch, còn giữ song tịch, mà phạm tội hoặc có
liên can tới khủng bố.
Công dân
Đức
Trong
thời chiến tranh lạnh, phía Đông Đức năm 1967 đã ban hành Luật mới về quốc
tịch, nhưng phía Tây Đức vẫn áp dụng Luật quốc tịch theo luật huyết thống ban
hành từ năm 1913 “Người Đức là công dân Đức”.
Tây Đức
vì vậy chấp nhận quyền công dân cho tất cả “công dân Đông Đức“. Luật quốc tịch
1913 được tiếp tục sử dụng khi nước Đức thống nhất.
Luật Đức
đòi hỏi khi nộp đơn xin quốc tịch Đức phải chính thức từ bỏ quốc tịch gốc. Công
dân Đức bị mất quốc tịch khi trở thành công dân nước khác.
Nhiều
nhân viên ngoại giao và sinh viên du học từ Việt Nam Cộng Hòa gặp khó khăn
trong thủ tục xin gia nhập quốc tịch nên nhiều người đã rời nước Đức hay không
trở thành công dân Đức.
Công dân
Đức không bị tước quốc tịch hay bị trục xuất vì bất cứ lý do gì.
Công dân
Mỹ
Hiến
Pháp và Luật Pháp Mỹ định nghĩa công dân theo nguyên tắc huyết thống. Nghĩa là
con cái của công dân Mỹ sinh ra bất cứ nơi nào trên thế giới đều được mang quốc
tịch Mỹ.
Để tránh
trường hợp bị kỳ thị da màu, Tu chính án 14 công nhận quyền công dân cho mọi
người sinh ra ở Mỹ.
Lợi dụng
Tu chính án 14 nhiều người ngoại quốc sang Mỹ sinh đẻ để đứa trẻ được cấp quyền
công dân và sau này có thể di dân đến Mỹ. Tổng Thống Trump tuyên bố sẽ ra một
sắc lệnh ngăn cấm việc lạm dụng này.
Hiến
Pháp và luật pháp Mỹ không công nhận song tịch mà cũng không cấm song tịch.
Theo
Ðiều khoản 349 INA của luật Quốc Tịch Mỹ “Công dân Hoa Kỳ có thể mất quốc
tịch Mỹ nếu nhập quốc tịch khác hoặc tuyên thệ trung thành với nước khác.”
Nhưng
thông thường chỉ khi công dân Mỹ làm đơn và tuyên thệ xin từ bỏ quốc tịch Hoa
Kỳ thì mới được xem là mất quốc tịch.
Luật
pháp Mỹ không cho phép bất cứ ai tước đoạt quyền công dân của người khác, nhưng
trong một số trường hợp công dân Mỹ không được phép hay bị cấm tới một số khu
vực vì lý do an ninh hay chính trị.
Quyền
Công Dân thời Việt Nam Cộng Hòa
Việt Nam
Cộng Hòa sử dụng luật huyết thống. Người Việt và con cái người Việt đều mang
quốc tịch Việt Nam.
Ngày
7/12/1955, Tổng thống Ngô Đình Diệm còn ban hành Dụ số 10 qui định tất cả những
ai sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam đều là người Việt Nam.
Lãnh thổ
Việt Nam được nói rõ trong Hiến Pháp 1956 và Hiến Pháp 1967 là từ Ải Nam Quan
đến Mũi Cà Mau, nghĩa là người miền Bắc hay người miền Nam đều là công dân
Việt.
Người có
quốc tịch Việt Nam sống ở bất cứ nơi vẫn là người Việt Nam và không ai có quyền
tước quốc tịch của người Việt Nam.
Người
Bắc di cư hay vượt tuyến đương nhiên được hưởng mọi quyền lợi và nghĩa vụ công
dân.
Người
theo cộng sản vẫn được xem là công dân Việt chỉ khác là họ lầm đường lạc lối.
Chính
sách chiêu hồi tạo cơ hội trên 230 ngàn cán binh cộng sản trong đó rất nhiều
cán binh từ miền Bắc về hồi chánh. Họ đã được tự động nhận mọi quyền lợi và
nghĩa vụ công dân.
Theo
Hiến Pháp 1967 Việt Nam Cộng Hòa đa số người Việt hải ngoại có đầy đủ quyền bầu
cử và ứng cử kể cả các chức vụ cao nhất là Tổng thống.
Điều
13.2 quy định “Mọi công dân đều có quyền bầu cử, ứng cử và tham gia công vụ
trên căn bản bình đẳng theo điều kiện và thể thức luật định.”
Điều
53.1 quy định quyền ứng cử Tổng Thống hoặc Phó Tổng Thống những công dân hội đủ
các điều kiện sau đây : “Có Việt tịch từ khi mới sanh ra và liên tục cư ngụ
trên lãnh thổ Việt Nam ít nhất mười (10) năm tính đến ngày bầu cử. Thời gian
công cán và lưu vong chánh trị tại ngoại quốc được kể như thời gian cư ngụ tại
nước nhà.”
Người
Việt hải ngoại dù là thuyền nhân, vượt biên đường bộ, đi theo diện HO, ở lại
các quốc gia thuộc Liên Xô và Đông Âu hay nay bị trục xuất như cô Lê Thu Hà đều
có chung một đặc thù là tị nạn chính trị.
Những
người ra đi chính thức nhưng có những việc làm về thông tin, văn hóa, chính trị
trái ý với nhà cầm quyền cộng sản bị cấm không thể trở về Việt Nam đều có thể
được xem là “lưu vong chánh trị”.
Những
người được gia đình bảo lãnh hay sinh ra ở hải ngoại vẫn được xem là những
người tị nạn chính trị.
Khi thể
chế tại Việt Nam thay đổi sẽ có những bước chuyển tiếp, trong đó có việc bầu ra
Quốc Hội Lập Hiến soạn thảo một Hiến Pháp mới cho Việt Nam.
Hiến
pháp mới và Luật pháp tương lai nên dựa trên tinh thần nhân bản và hòa đồng dân
tộc với những điểm tương tự như Hiến Pháp 1967.
Nguyễn
Quang Duy
Melbourne,
Úc Đại Lợi
27/11/2018