Biên dịch và ghi
chú: Nguyễn Hải Hoành
Khmer đỏ POL POT |
Lời giới thiệu của
Dịch giả: Trong dịp kỷ
niệm 30 năm ngày chính quyền Campuchia Dân chủ của Khmer Đỏ sụp đổ (4-1978),
nhiều báo mạng Trung Quốc đăng bài viết về cuộc diệt chủng xảy ra dưới chính
quyền này. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu một bài có đầu đề “Vén bức màn
bí mật về cuộc đại tàn sát do Khmer Đỏ tiến hành nhân danh cách mạng”
(không thấy ghi tên tác giả). Vì bài rất dài nên chúng tôi lược bỏ một số đoạn
không cần thiết lắm nhưng có chú thích, các đoạn còn lại thì dịch nguyên văn để
bạn đọc hiểu chính xác ý tác giả.
Ba mươi năm trước đây chính quyền Campuchia Dân chủ do
Khmer Đỏ xây dựng bị lật đổ bởi 10 vạn đại quân Việt Nam và bởi bộ đội của mình
quay súng chống lại. Sau đó các tài liệu liên quan tới lịch sử đẫm máu
của chính quyền này dần dần được công bố, chủ yếu thấy trong lời kể của những
người dân Campuchia tị nạn, phỏng vấn của các nhà báo phương Tây, điều tra của
các học giả, và các tài liệu do chính phủ Việt Nam và chính phủ mới của
Campuchia do Việt Nam nâng đỡ chỉnh lý và công bố.
Nhưng việc ghi chép lịch sử liên quan tới Khmer Đỏ bị
hạn chế bởi nhiều nhân tố, chủ yếu do tính che giấu của các chính sách do Khmer
Đỏ ấn định và thực thi, do tình trạng đóng cửa với bên ngoài của nhà nước khi
họ nắm chính quyền, và do tuổi thọ của chính quyền này quá ngắn ngủi, chưa hề
xây dựng được một bộ hồ sơ có hệ thống. Song song với đó, sự thiếu tài liệu và
các khó khăn về mặt nghiên cứu do nó gây ra, từ một góc độ đặc biệt, đã phản
ánh đặc điểm của cách mạng Campuchia: nó như một trận cuồng phong sau khi tràn
qua không để lại bất cứ dấu vết nào rõ ràng để có thể tìm kiếm, ngoại trừ đống
đổ nát.
Nhưng việc chờ đợi bổ sung hoặc tăng cường các quá
trình và chi tiết về cuộc cách mạng đó không ngăn trở chúng ta đưa ra các phán
đoán đối với hậu quả của cuộc cách mạng này: đây là một cuộc đại tàn sát dân tộc và chủng tộc với mục đích tái cơ cấu xã hội.
Gọi tàn sát dân tộc là
căn cứ vào tổng số người bị chết trong thời kỳ Khmer Đỏ thống trị 1975-1978;
tuy nhiên cho tới nay trên vấn đề này vẫn có các ước tính khác nhau, từ con số
bảo thủ 40 vạn cho tới con số khuếch đại 3 triệu người. Nhìn chung người ta cho
rằng một triệu là con số có thể chấp nhận được. Thế nhưng đối với một nước nhỏ
hồi ấy có dân số từ 7 đến 8 triệu người thì cho dù 1 triệu cũng là con số khó
có thể tưởng tượng, nó vượt xa quy mô những cuộc thanh toán và đàn áp chính trị
sau khi xây dựng chính quyền mới tại nhiều quốc gia. Bởi vậy học giả Pháp Jean
Lacouture gọi giai đoạn lịch sử này của Campuchia là “cuộc tự diệt chủng”
(auto-genocide). Tàn sát chủng tộc là
nói toàn bộ 2 vạn người gốc Việt Nam ở Campuchia bị chết, 43 vạn người gốc Hoa
thì chết 21,5 vạn, 1 vạn người gốc Lào chết 4.000 người, 2 vạn người gốc Thái
chết 8.000 người, 25 vạn tín đồ Islam (Cham) chết 9 vạn người — những con số
này đều vượt quá tỷ lệ tương ứng người Khmer bị chết.
Cần nhấn mạnh : việc điều tra cuộc đại tàn sát của
Khmer Đỏ mới đầu là do giới báo chí truyền thông phương Tây và học giả phương
Tây thực hiện, phần lớn các xuất bản phẩm liên quan đề tài này hiện nay cũng
đến từ phương Tây. Không những thế, các nước phương Tây còn cực lực chủ trương
để một tòa án quốc tế đứng ra xét xử Khmer Đỏ. Nếu có ai cho rằng điều đó phản
ánh thành kiến lệch lạc về hình thái ý thức của phương Tây (thí dụ tư duy chiến
tranh lạnh, tâm trạng hậu thực dân hoặc bá quyền quốc tế), thì tác giả bài này
mong rằng quan điểm ấy không đến nỗi phát triển tới mức có sự nghi ngờ đối với
sự thật cơ bản này của cuộc đại tàn sát.
(Bỏ không dịch 1 đoạn nói về những ý kiến bất đồng ở phương
Tây trong đánh giá Khmer Đỏ, và 1 đoạn tác giả cho rằng nên xét tới hậu quả
việc Mỹ ném bom đại trà Campuchia sau 1975 làm chết 3-25 vạn người và làm nhiều
nông dân đổ vào thành thị).
1. Các yếu tố cấu
thành cuộc đại tàn sát
Sở dĩ trong 4 năm 1975-1979 tại Campuchia xảy ra sự
giết chóc quy mô như thế là do mấy nhân tố dưới đây cấu thành: Thứ nhất, cuộc di dân cưỡng
chế với quy mô lớn. Tháng 4-1975, Khmer Đỏ giành chính quyền tiến vào các đô
thị, sau đấy trong thời gian từ 3 ngày đến một tuần họ cưỡng chế toàn bộ dân đi
khỏi các đô thị, dùng súng áp tải đưa về nông thôn. Vì công tác này hoàn toàn
không có sự chuẩn bị tương ứng về vật chất, thậm chí cũng chưa xác định mục
tiêu cuối cùng là gì, cho nên phần lớn người già yếu, đàn bà con trẻ đã chết vì
đói khát, ốm đau và mệt nhọc. Ngoài ra là do sự tàn sát có kế hoạch trong quá
trình di chuyển ấy đối với những người không phục tùng sự di chuyển và với
người khác mình (nguyên văn dị
kỉ phần tử) (gồm những người không phải dân Khmer và các tín đồ
Phật giáo).
Thứ hai,
thanh toán và đàn áp chính trị. Đây là nhằm vào các nhân viên quân sự, hành
chính của chính quyền Lon Nol, gồm binh sĩ, cảnh sát và công chức, kể cả các
thành viên Hoàng gia trước cuộc đảo chính của Lon Nol (hồi đó trên danh nghĩa
họ còn thuộc Mặt trận Liên hiệp dân tộc). Nói chung, mô thức hành quyết là dùng
xe tải chở những người này đến một địa điểm nào đấy rồi dùng gậy đập đến chết
hoặc trực tiếp bắn chết.
Thứ ba,
lao động thể lực cường độ cao. Những người còn sống sót trong cuộc di tản đi
khỏi đô thị thường bị buộc cùng nông dân làm những việc như đào mương, làm
ruộng, làm đường. Do tình hình kinh tế xấu đi, do thiếu lương thực và những thứ
cần dùng cho đời sống nên rất nhiều người đã chết dưới sự lao động cưỡng chế
đó.
Thứ tư,
thanh lọc nội bộ. Khmer Đỏ vừa lập quốc xong là bắt đầu cuộc thanh lọc nội bộ
với cái cớ dọn sạch những người thân Việt Nam, các gián điệp của KGB, đặc vụ
của CIA và những người khác mình mới chui vào trong Đảng. Trong số 13 người
lãnh đạo Mặt trận Dân tộc công bố danh sách hồi tháng 10-1975 có 5 người bị
hành quyết trong đợt thanh lọc năm 1977, gồm bộ trưởng Bộ Nội vụ, 2 bộ trưởng
Bộ Thương mại, bộ trưởng Bộ Thông tin tuyên truyền, Phó Chủ tịch thứ nhất Đoàn
Chủ tịch Nhà nước … Số người lãnh đạo Đảng, chính quyền và quân đội các đại khu
bị hành quyết càng nhiều hơn. Đợt tập trung nhất là đợt thanh lọc năm 1978 nhằm
vào cán bộ và quân nhân các đại khu miền Đông bị coi là phái thân Việt Nam. Đợt
thanh lọc này do Tà Mốc người lãnh đạo đại khu Tây Nam phụ trách, trong một lần
đã giết gần 10 vạn người Khmer Đỏ của mình. Ngoài ra còn xây dựng Trung tâm
Thẩm vấn tại một trường trung học ở phía Nam Phnom Penh, có ký hiệu S21, chủ
yếu dùng để thẩm vấn, tra tấn và hành quyết kẻ địch trong Đảng. Ước tính Trung
tâm này đã hành quyết 2 vạn người.
2. Mục tiêu của
Khmer Đỏ: vượt qua Lênin và Mao Trạch Đông
Điểm khác biệt với các cuộc đại tàn sát khác trong thế
kỷ XX là cuộc đại tàn sát của Khmer Đỏ không phải là để giải quyết sự xung đột
chủng tộc, bộ lạc hoặc tôn giáo, mà là nhằm
triệt để tái cơ cấu xã hội. Kiểu triệt để tái cơ cấu này
diễn ra sau khi Khmer Đỏ đã hấp thụ các kinh nghiệm của phong trào cộng sản
quốc tế, họ có ý định ngay khi cách mạng vừa mới thắng lợi xong bèn một lần
hành động là giải quyết xong tuốt tất cả các vấn đề hiện thực và các vấn đề
từng được lịch sử nước khác chứng minh là sẽ nảy sinh, xây dựng một xã hội XHCN
thuần túy hơn Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam. Nhằm đạt mục đích đó, họ từ chối
thử tiến hành bất kỳ phương pháp cải tạo hòa bình hoặc giáo dục thuyết phục
nào, họ thủ tiêu bất cứ thời kỳ quá độ nào và chọn một con đường trực tiếp giản
đơn nhất: ngay từ đầu dùng bạo lực để tiêu diệt với quy mô lớn và có tổ chức
một bộ phận dân chúng, qua đó đạt được sự cải tạo xã hội.
Thế nhưng con đường đó chưa hề trải qua sự chuẩn bị
lâu dài trước và sự chuẩn bị về lý luận, mà hình thành vội vàng trong có hai
năm ngắn ngủi. Từ các văn kiện do những người lãnh đạo Khmer Đỏ thời kỳ đầu lưu
lại, như văn kiện Paris hồi du học tại Pháp của Khieu Samphan và Ieng Sary, bài
“Chế độ dân chủ hay là chế độ quân chủ?” của Pol Pot viết hồi thập niên 50, cho
tới các tài liệu của hai đợt học tập chỉnh phong trong Đảng năm 1970 và 1971,
chúng ta đều không thấy có bất cứ sự bố trí hoặc ám thị nào về cuộc cải tạo xã
hội một cách hệ thống và đẫm máu sau khi giành chính quyền; trên cơ bản chỉ lặp
lại cương lĩnh cách mạng dân tộc dân chủ mà đảng của Trung Quốc và Việt Nam đã
thực hiện.
Từ tháng 5-1973, tại một số vùng do đảng Cộng sản
Campuchia kiểm soát bắt đầu tiến hành phong trào tập thể hóa nông nghiệp. Như
thế rõ ràng đã vượt qua cái hồi ấy gọi là tính chất dân tộc dân chủ của cuộc
cách mạng. Các biện pháp thực hiện gồm:
§ tiến
hành di chuyển dân nông thôn trên một quy mô nhất định;
§ cưỡng
chế tập trung dân vào các vùng do Đảng Cộng sản Campuchia kiểm soát để tham gia
hợp tác hóa, vì để cưỡng chế di dân mà thậm chí phóng hỏa đốt làng xóm cũ của
họ;
§ đóng
cửa các chùa chiền Phật giáo, cưỡng bức sư sãi tham gia lao động nông thôn;
§ thực
hành chế độ trang phục thống nhất, tất cả mọi người đều mặc quần áo nông dân
màu đen;
§ thực
hành chế độ nhà ăn tập thể ở nông thôn v.v..
Xét về diễn biến lịch sử, năm 1973 là điểm ngoặt của
cách mạng Campuchia. Tầng lớp lãnh đạo đảng Cộng sản Campuchia vứt bỏ đường lối
cách mạng dân tộc dân chủ tiệm tiến, lấy sự quá độ trực tiếp bắt đầu thực hành
ở vùng nông thôn do họ kiểm soát làm khởi điểm, ấn định một cương lĩnh dùng bạo
lực để triệt để cải tạo xã hội trong thời gian ngắn nhất. Nhưng so với đảng
Cộng sản Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam thì đảng Cộng sản Campuchia trước khi
nắm chính quyền chẳng những không có một thời kỳ phát triển tương đối dài và
độc lập, mà lại càng không có một quá trình phân tích lý luận, thảo luận thậm
chí tranh luận tương đối đầy đủ đối với đất nước và xã hội mình. Đứng trước
thời cơ mau chóng nắm được chính quyền (do Mỹ rút khỏi Đông Dương), trình độ lý
luận và kinh nghiệm chính trị của toàn đảng còn xa vẫn chưa đạt được trình độ
của các đảng lớn khác khi giành chính quyền. Một nhà nghiên cứu nói: sự kiện
Campuchia thể hiện hố sâu ngăn cách giữa thứ lý luận cực kỳ thô ráp với cuộc
thực nghiệm ở quy mô quốc gia. Khmer Đỏ là một thể chế vội vã xây dựng nên,
“vội vã tới mức căn bản không có thời gian tìm hiểu và quan tâm tới xã hội
Campuchia, toàn bộ những gì tồn tại trước thể chế này đều phải bị hủy diệt hoặc
ít nhất bị triệt để cải tạo”.
Nhưng điều châm biếm của lịch sử là một đảng thiếu
chuẩn bị nhất về nắm chính quyền lại đưa ra một cương lĩnh cách mạng nhất, vượt
qua mọi cuộc cách mạng khác; như Ieng Sary nhân vật số 2 của đảng Cộng sản
Campuchia nói năm 1977: “Cuộc thử nghiệm cách mạng Campuchia không có bất kỳ mô
hình sẵn có nào. Chúng ta đang làm những việc trong lịch sử không có tiền lệ;
mô hình Trung Quốc, mô hình Việt Nam đều không thích hợp dùng cho chúng ta.”
Tháng 9-1975, một số nhà trí thức Campuchia học ở nước
ngoài về có nhìn thấy khẩu hiệu “Angkar[1] vượt qua
Lênin, vượt qua Mao Trạch Đông”.
Một cán bộ cấp cao phụ trách đón tiếp họ đã giới thiệu: Tính chất đặc biệt của
cách mạng Campuchia là rút hết dân ra khỏi thành phố và xóa bỏ tiền tệ. Ông này
nói: Mao Trạch Đông từng nói cần tiến hành cách mạng văn hóa nhiều lần nữa
nhưng cuối cùng thì ngừng lại, còn chúng tôi ngày nào cũng làm cách mạng văn
hóa. Ông đặc biệt nhắc tới việc Trung Quốc vẫn dùng tiền tệ, tư nhân vẫn có thể
nuôi gà vịt — những chuyện ấy không có tại Campuchia. Các chuyên gia Trung Quốc
ở Campuchia bị coi là đã biến thành “xét lại”, vì họ không những có lĩnh lương
mà khi về Trung Quốc còn dùng tiền dành dụm để mua đồ điện hoặc máy khâu ở hải
quan đem về nước. Có lần chuyên gia Trung Quốc hỏi người Campuchia là cái đập nước
mới xây dựng này chi phí hết bao nhiêu tiền, thì người Campuchia nửa bất mãn
nửa tự hào trả lời: “Đập nước này do nhân dân xây dựng. Nước chúng tôi không
dùng tiền.” Nhất là người Trung Quốc (người Việt Nam cũng thế) vẫn nhà nào ăn
cơm nhà nấy, còn ở Campuchia trước khi cách mạng thành công đã thực hiện chế độ
nhà ăn tập thể ở vùng do Khmer Đỏ kiểm soát.
Dựa
vào sự so sánh ấy, cán bộ Campuchia cho rằng “Chế độ của chúng tôi ưu việt hơn
chế độ của người Trung Quốc”. Có thể nhận xét đảng Cộng sản Campuchia đã rút ra
bài học gọi là “hữu” trong phong trào cộng sản quốc tế, muốn ngay từ khi vừa
mới nắm chính quyền đã lập tức giải quyết triệt để mọi vấn đề mà Trung Quốc tả
nhất hồi ấy còn chưa giải quyết, không những “nhảy qua giai đoạn quá độ để lập
tức tiến lên chủ nghĩa xã hội”,[2] mà
còn tiến ngay sang chủ nghĩa cộng sản, qua đó xây
dựng cho Thái Lan, Indonesia và Miến Điện một mô hình khác với Trung Quốc, Việt
Nam (hồi ấy Campuchia cho rằng tình thế cách mạng Đông Nam Á đã chín muồi,
Campuchia sẽ trở thành một trung tâm mới của Đông Nam Á). Đó là cái gọi là “đặc
sắc Campuchia”.
Đây
là mô hình triệt để tái cơ cấu xã hội ngay từ ngày đầu tiên cách mạng thắng
lợi. Mô hình đó bắt đầu thực hiện từ ngày 17-4-1975 (ngày Khmer Đỏ tiến vào
Phnom Penh) bằng cuộc đại di dân các thành phố. Những lý do mà hồi ấy Khmer Đỏ
tuyên bố với dân thành phố và nạn dân là: – Mỹ có thể ném bom các thành phố; –
các thành phố thiếu lương thực. Đó là sự giải thích chính thức của chính quyền
Khmer Đỏ. Cho tới tháng 9-1977 Pol Pot mới thừa nhận việc rút dân ra khỏi các
thành phố là do “nguyên nhân an ninh”,
tức là nhằm để triệt phá hết căn cứ địa hoạt động của các tổ chức phản cách
mạng. Quyết định rút dân ấy ra đời hai tháng trước khi Khmer Đỏ tiến vào thành
phố, song lại giữ bí mật cả với các cán bộ cấp khá cao. Việc giữ bí mật đó đã
làm cho cuộc đại di chuyển 2 triệu dân hoàn toàn không có chuẩn bị trước; vì
thế mấy chục vạn dân bị chết là điều tất nhiên.
Ngày
20-5-1975 (một tháng sau khi Khmer Đỏ tiến vào thành phố), tại Phnom Penh có tổ
chức cuộc họp toàn thể cán bộ cấp cao Khmer Đỏ. Tại cuộc họp, lần đầu tiên
người ta công bố các chính sách của Trung ương sau khi tiến vào thành phố. Cuộc
họp này không lưu lại bất kỳ văn bản nào (ít nhất tới nay chưa phát hiện). Ngày
nay sở dĩ biết được nội dung cuộc họp ấy chủ yếu dựa vào lời kể của những người
dự họp, nhất là hồi ức của những người sau này cắt đứt với Khmer Đỏ như Heng
Samrin (nguyên tướng lĩnh Khmer Đỏ, sau đi theo Việt Nam và trở thành người
lãnh đạo chính quyền mới xây dựng năm 1979), sau đó chắp nối lại các tư liệu đó
lại.
Điểm
chính của các nội dung cuộc họp này là: rút hết dân ra khỏi thành thị; bỏ tiền
tệ; đóng cửa các chùa chiền Phật giáo, đuổi sư sãi đi làm lao động nông nghiệp;
hành quyết tất cả những người lãnh đạo chính quyền Lon Nol; xây dựng hợp tác xã
cấp cao trong cả nước và thực hành chế độ nhà ăn tập thể; đuổi hết dân Việt Nam
ra khỏi Campuchia; điều động quân đội đến biên giới Campuchia-Việt Nam chuẩn bị
tác chiến; v.v… Có người dự họp còn nói phải hủy bỏ cả trường học và bệnh viện
nữa. Hồi ức của Heng Samrin hợp với các nội dung đó và bổ sung thêm: việc hủy
bỏ tiền tệ đồng thời tiến hành với xóa bỏ thị trường và tài sản tư nhân. Ông
còn nói, trong cuộc họp trên cũng tuyên bố phân loại mọi người thành “Người có quyền lợi đầy đủ”
và “Người dự khuyết”
(xem trình bầy sau đây). Đáng chú ý là phát biểu của Nuon Chea (một trong các
lãnh đạo chủ chốt của Khmer Đỏ) có nhấn mạnh nguyên tắc “xem xét nghiêm ngặt”.
Theo giải thích của những người dự họp thì đó là nói có thể sử dụng bạo lực
trong quá trình thi hành các chính sách trên để trừ khử hết những người chống
đối và bất mãn, không được giữ họ lại trong xã hội.
3. Tái cơ cấu xã hội với cái giá đại tàn sát
Cơ
sở của việc tái cơ cấu xã hội của Khmer Đỏ trước hết là tiêu diệt thể xác một
bộ phận những kẻ chống đối về chính trị, loại bỏ họ ra khỏi xã hội. Bài nói
quan trọng của Pol Pot phát trên đài ngày 27-9-1977 (lúc đó Pol Pot đang ở thăm
Trung Quốc) tuyên bố cách mạng Campuchia là “xã hội chủ nghĩa”, trong
toàn bộ dân số của Campuchia có 2% là “phần tử phản cách mạng” – nghĩa là con
số này vào khoảng 14 vạn người. Đáng chú ý là lúc đó phong trào đàn áp các phần
tử đối địch về chính trị trong xã hội đã qua đi, thế mà vẫn còn một tỷ lệ cao
như thế phần tử đối địch đang chờ bị đàn áp! Qua đây có thể tưởng tượng số
người bị hành quyết với tội danh “phần tử phản cách mạng”
trong thời gian từ tháng 4-1975 tới cuối năm 1978 (khi quân đội Việt Nam tiến
vào Phnom Penh) lớn đến chừng nào.
Ngoài
việc loại bỏ “phần tử phản cách mạng” ra khỏi dân chúng, Khmer Đỏ còn có một
chính sách độc nhất vô nhị là công khai phân loại dân Campuchia ra làm hai bộ
phận có quyền lợi khác nhau. Sau khi nắm chính quyền, Khmer Đỏ gọi những nông
dân vốn ở vùng nông thôn do họ kiểm soát là “Người cũ”, hoặc “Người vùng căn cứ địa”,
nghĩa là những người đã tham gia cách mạng. Những người từ thành phố bị di
chuyển về nông thôn thì bị gọi là “Người
mới”
hoặc “Người 17 tháng 4”,
nghĩa là người được tiếp thu sau khi Khmer Đỏ tiến vào thành phố. Về nguyên tắc
hai loại người này được hưởng sự đối xử chính trị và cấp phát về vật chất khác
nhau. “Người cũ” còn có nhiệm vụ cải tạo và giám sát “Người mới”.
Ngoài
việc phân loại dựa vào thành phố và nông thôn ra, còn một kiểu phân loại nữa là
chia dân Campuchia ra làm “Người được hưởng đầy đủ quyền lợi”
và “Người dự khuyết”
(người có quyền lợi không đầy đủ). Về sau lại từ hai loại người này tách ra
người “Loại B”
(nguyên văn: loại hình Á) “Người quyền lợi hoàn toàn cấp một”
là những ai trước đây không có người thân làm việc cho chính quyền Lon Nol mà
đều chỉ phục vụ cách mạng. “Người quyền lợi hoàn toàn cấp hai”
là những ai vừa có người thân tham gia cách mạng lại vừa có người thân từng ở
trong chính quyền Lon Nol. Ngoài ra còn có “Người quyền lợi hoàn toàn cấp ba”,
nhưng giới hạn cụ thể về loại này không rõ ràng. “Người dự khuyết” cũng chia
hai hạng. Hạng một là những ai có người thân phục vụ chính quyền Lon Nol, song
đa số là người bình thường, cũng có một số người thân từng gián tiếp phục vụ
cách mạng. Hạng hai là những ai hoàn toàn không có người thân từng phục vụ cách
mạng.
Qua
sự cố ý tổ hợp và phân loại cơ cấu xã hội, Khmer Đỏ trên thực tế đã phục hồi
chế độ chủng tính[3] của
xã hội vùng Nam Á châu. “Công dân” đã trở thành một đẳng cấp đặc biệt trong xã
hội chứ không phải là thứ quyền lợi con người sinh ra đã có. Đồng thời qua biện
pháp loại trừ khỏi phạm trù “công dân” những người thuộc loại khác với mình,
hoặc những người chỉ có quá khứ không tích cực tham gia cách mạng, Khmer Đỏ đã
làm cho việc tùy ý hãm hại và tước đoạt sinh mạng những người nói trên trở nên
có lý do “hợp pháp”, do đó việc nhiều người bị giết cũng trở nên không có gì
đáng ngạc nhiên. Tuy rằng nói chung Khmer Đỏ chủ yếu lợi dụng số “tiện dân” này
để làm những việc lao động cực nhọc, nhưng đồng thời cũng tiến hành “tái giáo
dục” tư tưởng cho những người đó. Phương thức tái giáo dục ấy cũng như toàn bộ
cuộc cách mạng Campuchia có đặc điểm trực tiếp nhất, thô tục nhất.
Một
số “Người 17 tháng Tư” nhớ lại : hàng năm Khmer Đỏ hoặc “Người vùng căn cứ”
triệu tập hai lần hội nghị “Cách sống”. Trong cuộc họp
bao giờ cũng nhắc lại những câu hỏi như “Có nhất trí với cách mạng không? Có
còn nghĩ tới tài sản cá nhân không? Khi lao động có thực sự thấy sung sướng hay
chỉ cam chịu phải làm? Còn nhớ vợ con hay không?” Cần nêu ra một việc: những
“Người vùng căn cứ” và “Người có quyền lợi hoàn toàn” cũng chỉ được hưởng trên
giấy các quyền lợi đầy đủ hơn loại khác, cộng thêm, họ có thể thực hành chuyên
chính quần chúng đối với loại người kia mà thôi, chứ còn trước mặt Khmer Đỏ thì
họ cũng chẳng có bất kỳ “quyền lợi hoàn chỉnh” nào đáng kể. Thí dụ sau khi thi
hành tập thể hóa nông thôn, họ không có quyền tự do rời khỏi làng cũ, toàn bộ
tài sản của họ bị tước đoạt, ai giấu lương thực cho nhà mình nếu phát hiện sẽ
bị xử tử. Cùng với tình hình kinh tế ngày một xấu đi, nồi cơm nhà ăn tập thể
của họ cũng chỉ có cám mà thôi, chẳng khác gì nồi cơm của các đối tượng bị họ
thi hành chuyên chính.
Trên
lĩnh vực kinh tế, Khmer Đỏ đặt mục tiêu không những loại bỏ ngành thương mại
cùng các ngành kinh tế và dịch vụ vốn có trong hình thái xã hội bình thường, mà
còn nghiên cứu xây dựng một quốc gia nông nghiệp tự cấp tự túc lấy sản xuất lúa
gạo làm toàn bộ cơ sở, dựa xuất khẩu gạo để xây dựng đất nước. Pol Pot nhấn
mạnh “nhanh”.
Ông ta nói : “Chúng ta khác với họ (tức các nước XHCN khác) ở chỗ chúng ta
nhanh hơn”. Sau khi nắm chính quyền, đầu tiên Khmer Đỏ nêu mục tiêu mỗi hecta
sản xuất 3 tấn thóc, trong khi trước đó Campuchia bình quân mỗi hecta chỉ sản
xuất được 1 tấn. Về sau, tháng 8-1976 chính thức công bố “Kế hoạch 4 năm”,
trong đó chính trị tư tưởng được coi là đòn bẩy đắc lực nhất, như một cán bộ
nói: “Khi một dân tộc được thức tỉnh bởi giác ngộ chính trị thì họ có thể làm
được tất cả. Các kỹ sư không làm được nhưng nhân dân thì làm được” — ý nói
người trí thức do bị ràng buộc bởi điều kiện vật chất kỹ thuật nên không tài
giỏi bằng những người bình thường. Pol Pot từng tự hỏi và tự trả lời như sau:
“Chúng ta có thể thực hiện được các chỉ tiêu ấy không? Trả lời là: ở bất cứ đâu
chúng ta cũng thực hiện được, chứng cớ là phong trào chính trị của chúng ta.”
Khi
di chuyển một lượng lớn dân thành phố về nông thôn, Khmer Đỏ hồi ấy có xét tới
lợi ích về mặt kinh tế là có thể dùng họ làm lao động nông nghiệp mà không phải
trả thù lao. Vùng Tây Bắc Campuchia là nơi sản xuất lúa chủ yếu của nước này,
trên mức độ lớn, việc sản xuất ấy là do một triệu “Người 17 tháng 4” bị di
chuyển lên vùng này cáng đáng. Trong hai năm lao động gian khổ vỡ hoang và đào
mương đắp đập, rất nhiều người đã chết vì đói, vì ăn không đủ chất và vì ốm
đau. Khi tin tức nhân công lao động bị giảm mạnh được báo cáo lên Phnom Penh,
lãnh đạo Khmer Đỏ thường trút cơn giận dữ lên “kẻ thù giai cấp”. Thế là họ lại
triển khai cuộc thanh lọc nội bộ những người Khmer Đỏ phụ trách giám sát quản
lý lao công và hành quyết những “Người 17 tháng 4” bị nghi ngờ.
Đồng
thời các chỉ tiêu do Trung ương đặt ra trở thành nhiệm vụ chính trị, nếu không
hoàn thành thì phải hỏi tội các cán bộ địa phương. Điều đó khiến cho các cán bộ
cơ sở của Khmer Đỏ đều ra sức đuổi [?] những “Người 17 tháng 4” và nông dân.
Như
thế, chỉ tiêu “3 tấn một hecta” và “Kế hoạch 4 năm” với mục đích triệt để cải
tạo cơ cấu nền kinh tế quốc gia đã trở thành một bộ phận cấu thành vụ đại tàn
sát.
Lịch
sử chứng minh, một chính quyền thực hành chuyên chính khủng bố trong xã hội thì
sớm muộn cũng sẽ thực hành sự chuyên chính ấy ngay trong nội bộ tập đoàn thống
trị. Bởi lẽ khi sự khủng bố có tổ chức đã trở thành quán tính và cấu tạo nên
yếu tố cơ chế thì nó tất sẽ tìm được một mục tiêu có tổ chức cho chính bản thân
nó; mà sự nguyên tử hóa (theo nguyên văn) xã hội và cá nhân thì sẽ làm cho tự
thân tập đoàn thống trị duy nhất có tổ chức trở thành đối tượng của kiểu chuyên
chính ấy. Cái ngày mà sự đàn áp và tàn sát quy mô lớn trở thành khâu quan trọng
trong cơ cấu xã hội do Khmer Đỏ vừa mới xây dựng nên cũng tức là lúc sự định kỳ
thanh lọc trở thành một bộ phận của trật tự trong đảng.
Lý
luận của Pol Pot là săn lùng và tiêu diệt các “vi trùng”. Tháng 12-1976,
khi đống hồ sơ thẩm vấn của Trung tâm S21 ngày một chất cao như núi, Pol Pot
triệu tập một “Hội nghị học tập” và nói: Chúng ta còn chưa thể biết rõ vi trùng
ở đâu. Căn bệnh có hiện rõ thì mới khám ra bệnh. Vì cuộc cách mạng nhân dân và cách
mạng dân chủ còn thiếu nhiệt lượng… nên công tác săn lùng vi trùng trong đảng
ta còn chưa có kết quả. Vi trùng ở những chỗ rất sâu kín. Nhưng khi cách mạng
XHCN tiến lên thì chúng chui vào mọi xó xỉnh trong đảng, quân đội và nhân dân.
Chúng ta sẽ tìm ra những con vi trùng độc hại ấy… Nhưng nếu ta dừng lại một
chút thôi thì lũ vi trùng ấy sẽ thực sự gây nguy hiểm… Qua quan sát 10 năm nay,
chúng ta thấy rõ là về cơ bản kẻ địch chưa biến mất, vì chúng không ngừng chui
vào đảng. Nhưng Pol Pot lại cam đoan là những con “vi trùng” ấy cuối cùng sẽ bị
vạch ra hết, vì “Đảng có rất nhiều con mắt chẳng khác gì mắt của quả dứa”.
Cuộc
thanh lọc nội bộ Khmer Đỏ lan rộng tới mức coi toàn bộ tổ chức chính quyền,
quân đội, thậm chí toàn thể dân chúng của cả một vùng là đối tượng thanh lọc.
Trong đợt thanh lọc vùng Đông Bắc đã nói ở trên, Trung ương nêu khẩu hiệu: cán
bộ, quân nhân và thường dân của cả vùng này đều là những kẻ “Người Khmer, lòng dạ Việt Nam”.
Kết quả chỉ trong 6 tháng đã hành quyết 10 vạn người, chiếm 1/70 – 1/80 số dân
cả nước. Hành quyết với quy mô lớn như thế đã không còn là vấn đề giải quyết
một bộ phận người trong đảng mà là tiêu diệt một bộ phận rất lớn dân chúng vốn
có của cả một vùng, qua đó thực hiện sự trong sạch về chính trị.
4. Địa vị của Khmer Đỏ trong lịch sử cách mạng thế kỷ
XX
Tác
giả cho rằng việc tìm hiểu lịch sử nắm chính quyền hơn 4 năm của Khmer Đỏ là sự
thách thức đối với lý trí của nhân loại. Đó không phải là nói ở đây có khó khăn
gì về học thuật đáng để bàn luận, mà là nói lý trí loài người có năng lực nhận
thức được và giải thích được hay không hiện tượng đẫm máu và phi lý chưa từng
có ấy, phải chăng nó vượt quá giới hạn cực độ của lịch sử lý trí nhân loại nhận
thức lịch sử của mình. Chúng ta có lý luận chủ nghĩa chủng tộc để cơ bản giải
thích chính sách diệt chủng của bọn Quốc xã Hitler, song chúng ta có lý luận
nào để có thể giải thích vừa ý việc một chính quyền trong 4 năm ngắn ngủi đóng
cửa đất nước mình, phát minh ra lắm thứ tội danh không hề có, dùng thủ đoạn bạo
lực nguyên thủy nhất để tiêu diệt một phần mấy dân tộc mình? Tại đây tôi chỉ
muốn đưa ra vấn đề này để các bạn đọc có tâm tiếp tục suy nghĩ. Bản thân tác
giả cũng cảm thấy vô cùng khó hiểu. Để trả lời câu hỏi này có lẽ cần sự cố gắng
chung của nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn, còn sử học thì chỉ có thể có
tác dụng thâu lượm tư liệu, cung cấp các đầu mối cơ bản về sự diễn biến của thể
chế đó. Bởi vậy chúng tôi muốn sau khi nêu lên vấn đề siêu hình (nguyên
văn hình nhi thượng)
này, sẽ trở lại phạm trù hình nhi hạ (?),[4] từ
góc độ lịch sử cách mạng thế kỷ XX bàn thảo một chút về địa vị của Khmer Đỏ.
Góc độ này có thể tái cung cấp chút ít manh mối gián tiếp cho câu hỏi kể trên.
Phương
Tây có những nhận thức khác nhau về tính chất cuộc cách mạng của Khmer Đỏ. Có
quan điểm cho rằng đây là một cuộc “cách
mạng nông dân triệt để”,
là sự trả thù của nông dân khởi nghĩa đối với thành phố; hành vi bạo lực của nó
không bắt nguồn từ tư tưởng của Pol Pot và Khieu Samphan, mà là kết quả của
việc chủ nghĩa dân tộc, dân túy và cách mạng nông dân áp đảo chủ nghĩa tư bản.
Vả lại những người lãnh đạo đảng Cộng sản Campuchia cũng thuộc giai cấp tiểu tư
sản mang đậm chất lãng mạn nông dân. Nhưng Ben Kiernan, tác giả sách “Chế độ Pol Pot”
— một cuốn sách rất có ảnh hưởng, dựa trên hơn 500 cuộc phỏng vấn của mình
— thì cho rằng ngay cả nông dân cũng chẳng thể sống còn được dưới chế độ
này. Chính sách nông thôn của Khmer Đỏ là hy sinh lợi ích của tiểu nông. Nó phá
hủy 3 yếu tố mà nông dân Campuchia dựa vào để sinh tồn trong cả nghìn năm qua
— gia đình, ruộng đất và tôn giáo;
nó trực tiếp trói buộc họ dưới quyền lực của nhà nước, trên thực tế là xây dựng
một nước nông nghiệp của những người nô lệ theo hợp đồng (Indentured Agrarian
State).
Đáng
chú ý quan điểm của chính người Campuchia — ông Hun Sen, đương kim Thủ tướng
Campuchia, nguyên cán bộ Khmer Đỏ cấp cao — thể hiện trong cuốn “130 năm Campuchia”
(bản tiếng Trung Quốc xuất bản tháng 4-2008, phát hành tại Campuchia và
Singapore). Theo Tuần san Á châu xuất bản tại Hong Kong ngày 5-4-2008, Hun Sen
cho rằng “Cách mạng Trung Quốc có gốc rễ tư tưởng là tư tưởng
Mao; tư tưởng của Pol Pot cũng bắt rễ từ tư tưởng Mao. Tư tưởng đó được thực hiện ở Campuchia nhưng cũng bị
chứng minh là thất bại.”
Sau khi Hun Sen đi thăm Bắc Triều Tiên về, ông bổ sung thêm nguồn gốc sinh ra
đường lối của Khmer Đỏ, cho rằng những thứ vượt qua chủ nghĩa Mao trong tư
tưởng Pol Pot thì bắt nguồn từ Bắc Triều Tiên.
Chúng
tôi cho rằng rõ ràng Khmer Đỏ thuộc vào đường dây cách mạng XHCN thế kỷ XX,
song lại là sự thừa kế thời kỳ cực đoan của
cuộc cách mạng này — cách mạng Nga đến cuối thập niên 30, cách mạng Trung
Quốc đến cuối thập niên 70 và cách mạng Cuba đến cuối thập niên 60. Sự tái cơ
cấu xã hội của 3 cuộc cách mạng ấy vốn dĩ có một xu thế tăng tốc, cuộc cách
mạng sau sớm hơn, nhanh hơn, cấp tiến hơn cuộc cách mạng trước. Khmer Đỏ là
phiên bản thu nhỏ và cường hóa của các cuộc cách mạng đó. Chứng cớ là Khmer Đỏ
trong 2-3 năm đi hết chặng đường lịch sử cách mạng tái cơ cấu xã hội mà các
cuộc cách mạng kia cần phải tiến hành ngắn nhất 10 năm, dài nhất 30 năm. Thí
dụ: nó hầu như không có cách mạng ruộng đất mà tiến ngay lên tập thể hóa nông
nghiệp — còn Liên Xô và Trung Quốc thì khá lâu sau khi giành chính quyền mới
tiến hành tập thể hóa. Khmer Đỏ bắt đầu thực thi “Kế hoạch 4 năm” cũng sớm hơn
nhiều so với 3 nước nói trên. Tại ba nước đó (nhất là Liên Xô và Trung Quốc),
sau khi giành chính quyền hơn 10 năm mới có các cuộc đấu tranh và thanh lọc quy
mô lớn trong nội bộ đảng, còn Khmer Đỏ thì hầu như vừa vào thành phố là triển
khai ngay việc đó.
Nhưng
sự rút ngắn thời gian chỉ là một mặt, điều quan trọng hơn là tính cực đoan trong chính
sách của Khmer Đỏ. Tại nước Campuchia Dân chủ, cơ bản không thấy các chính sách
có đặc trưng “thời kỳ quá độ”, như thuyết phục, giáo dục, hạn chế, lợi dụng,
cải tạo … Thủ đoạn duy nhất của Khmer Đỏ là mệnh lệnh của Angkar và súng AK47.
Nhiều nhà nghiên cứu vạch ra: ở Campuchia không thấy có các biện pháp chủ yếu
các nước XHCN khác hay dùng để thực hiện lời kêu gọi của đảng, như đại hội động
viên hoặc diễu hành quần chúng, thậm chí Khmer Đỏ cảm thấy những thứ đó là
thừa.
Ngoài
ra, trong 3 cuộc cách mạng kể trên, gia đình với tư cách là đơn vị cơ bản của
xã hội tuy đã được cải tạo cực lớn từ quan niệm đến hình thái, song kết cấu cơ
bản của gia đình thì vẫn tồn tại, không bị xóa bỏ. Nhưng Khmer Đỏ thì coi xóa bỏ gia đình là
khởi điểm của việc tái cơ cấu xã hội, họ thực thi nó ngay từ trước khi giành
chính quyền và sau khi giành chính quyền thì mở rộng ra khắp cả nước. Hợp tác
xã và các tổ chức cưỡng chế lao động trở thành đơn vị cơ bản nhất của xã hội.
Các thành viên gia đình tùy theo giới tính và độ tuổi bị chia tách vào các tổ
chức khác nhau, trẻ vị thành niên bị tách khỏi cha mẹ. Nam 32, nữ 25 tuổi trở
lên mới được kết hôn. Một hình thức quan trọng nữa nhằm xóa bỏ gia đình được
thực hiện triệt để nhất là chế độ nhà ăn tập thể.
Ý nghĩa của nó không chỉ là cùng ăn uống, mà là tiêu diệt không gian riêng tư
trong đời sống xã hội. Khmer Đỏ coi việc xóa bỏ ăn cơm gia đình là
thành tích thể hiện rõ nhất tính sáng tạo cách mạng của Campuchia. Cán bộ Khmer
Đỏ nói: thậm chí Trung Quốc vẫn còn giữ lại cái “cơ cấu chủ nghĩa tư bản” này.
Khmer
Đỏ không kém bất cứ ai về mặt tập trung cao độ quyền lực, hơn nữa còn có đặc
sắc riêng — đó là nền chính trị gia tộc (clan
politics). Hai lãnh tụ Khmer Đỏ cao nhất là Pol Pot và Ieng Sary là anh em đồng
hao, từ ngày du học ở Paris đã liên kết chính trị với nhau. Mối “quan hệ thân
thích” cách mạng ấy khiến cho các thành viên gia đình cán bộ cao cấp nắm giữ
hết mọi chức vụ lãnh đạo các cấp. Điển hình nhất là Tà Mốc, nhà lãnh đạo Khmer
Đỏ đại khu Tây nam, từng được báo chí Trung Quốc gọi là người “thiện chiến” nhất,
“oai vệ” nhất, được cấp dưới kính sợ. Con người ấy chẳng những được gọi là “đồ
tể” do đã tiến hành cuộc thanh lọc đẫm máu ở đại khu miền Đông, mà còn bố trí
hầu như toàn bộ thành viên gia đình mình vào các chức vụ quan trọng đảng, chính
quyền và quân đội ở đại khu Tây Nam (cá biệt vào cả thủ đô Phnom Penh), gồm: 2
bà con thông gia (lãnh đạo tổ chức đảng cấp cao nhất ở cấp vùng), 4 con trai
(từ bí thư đảng nhà máy tới chỉ huy cấp sư đoàn), 5 con rể (từ bí thư tỉnh cho
tới tư lệnh sân bay Pochentong); trong 5 con gái thì một là bí thư đảng khu
Tram Kak (khu kiểu mẫu của Khmer Đỏ, bí thư cũ là chồng cô này), một là giám
đốc bệnh viện… Chính màng lưới quyền lực gia đình ấy làm cho Tà Mốc được gọi là
“Bố già Tà Mốc”.
Trong
khi bắt mọi người xóa bỏ gia đình thì Khmer Đỏ lại phát huy chức năng gia đình
mình tới trình độ tương đương một cơ cấu chính quyền. Điều đó chẳng những xuất
phát từ thói “Một người làm quan, cả họ được nhờ”, mà hơn nữa, trong cái chế độ
xây dựng bằng thủ đoạn đẫm máu như thế, mối quan hệ huyết thống đã trở thành
mối quan hệ duy nhất có thể tin cậy. “Đồ tể” Tà Mốc là viên tướng Khmer Đỏ kiên
trì tới cuối cùng (mãi tới tháng 4-1999 mới bị sa lưới). Đó là do hắn giết quá
nhiều người nên không thể nào trở về với xã hội được nữa; mặt khác điều ấy cũng
nói lên màng lưới quyền lực gia đình của hắn rất có hiệu quả.
Đáng
kể là mùa thu năm 1978, khi chính quyền Khmer Đỏ chỉ còn lại 2-3 tháng cuối
cùng, trong đảng có thảo luận vấn đề “cải cách”, bắt đầu từ biện pháp “giáo
dục”. Một số trường tiểu học được mở lại (có tài liệu nói con em những “Người
17 tháng 4” không được đi học). Mấy trăm nhà trí thức học ở phương Tây về bị
giết bị tù, còn lại 15 người nhận lệnh mở một trường đại học kỹ thuật, tuyển
sinh 300 người tuổi từ 10 đến 16. Ngoài ra thậm chí còn xét đến chuyện khôi
phục lại tiền tệ.
Khmer
Đỏ tưởng rằng lịch sử còn cho họ một cơ hội để thực hành “Chính sách kinh tế
Mới”, khiến họ có thể lập thêm một kỳ tích mới, trong 4 năm có thể đi từ tai
họa dân tộc tới “Cải cách mở cửa”. Nhưng họ đã lầm. Xã hội Campuchia bị Khmer
Đỏ phá hủy tới mức không thể nào xây dựng lại trong tay họ được nữa. Nhân dân
Campuchia thà tiếp nhận một chính quyền do Việt Nam nâng đỡ dựng lên, ít nhất
có thể làm cho họ được đoàn tụ gia đình.
Khmer
Đỏ từng tự nhận họ đã cáng đáng nhiệm vụ làm làn sóng cuối cùng của cuộc cách
mạng không ngừng tăng tốc trên phạm vi toàn thế giới, song kết quả họ lại lao
đầu xuống cái hố sâu nghìn trượng được bồi táng [chôn theo] xương trắng của hơn
một triệu đồng bào mình. ★
Nguyễn Hải Hoành biên
dịch và ghi chú | Bản gốc tiếng Trung: 以革命的名义:红色高棉大屠杀揭秘, 2008年03月04日 千龙网
———————–
Ghi
chú của người dịch:
[1] Angkar, tiếng Campuchia,
nghĩa là tổ chức; hiểu là tầng lớp
lãnh đạo Khmer Đỏ.
[2] Những
chữ có gạch dưới trong nguyên bản đều là ô vuông (lỗi do máy tính), ở đây người
dịch phỏng đoán.
[3] Chế độ chủng tính (caste
system): xã hội cổ Ấn Độ chia dân chúng làm 4 chủng tính (tập đoàn đẳng cấp),
các chủng tính không được giao lưu với nhau, không được lấy vợ chồng là người
khác chủng tính … Cách phân chia này thể hiện sự áp bức giai cấp tàn khốc và
cực kỳ mất bình đẳng. 4 chủng tính gồm: – Bà La Môn (Brahman, tức
giới tăng lữ đạo Bà La Môn); – Sát
Đế Lợi (Kshatrya,
tức tầng lớp võ sĩ); – Phệ Xá (Vaisya, nhà
buôn và nông dân); – Thủ Đà La (Sudra, lao
động không nghề nghiệp). Ngoài ra còn có tầng lớp tiện dân (Harijan), là
tầng lớp dưới cùng, còn gọi là tầng lớp không thể tiếp xúc (untouchable).
[4] Hình nhi hạ: chữ Hán dùng
trong bản gốc, chưa tìm được từ tiếng Việt tương đương. Chúng tôi đoán là cụ
thể/ thực tại.