Tại Hội nghị văn học 2016 do Hội Nhà văn Việt Nam tổ
chức ở Hà Nội ngày 16/12/2016, chủ tịch của tổ chức này là Hữu Thỉnh phát ra một
tán thán chưa từng có về số phận của hội đoàn bị nhiều người coi
là “ăn bám” này.
Theo tường thuật của báo Tuổi Trẻ,
khó khăn đầu tiên mà ông Thỉnh đưa ra là thông thường mỗi nhiệm kỳ năm năm các
hội văn học nghệ thuật được nhận khoảng 400 tỉ đồng tiền hỗ trợ sáng tác từ
ngân sách nhà nước, trong đó riêng Hội Nhà văn Việt Nam mỗi năm được nhận 4.8 tỉ
đồng.
Nhưng năm 2016 Hội Nhà văn chỉ nhận được một nửa số tiền là 2.4 tỉ đồng.
Ông Thỉnh than vãn: “…Nếu kỳ họp vừa rồi mà Quốc
hội nhấn nút thông qua Luật về hội thì không biết chúng ta sẽ khốn đốn thế nào,
bởi khi đó Hội Nhà văn cũng như các hội khác sẽ không có trụ sở, không biên chế,
không được cấp kinh phí. Vậy thì còn gì để hoạt động nữa?Nếu chúng ta không được
cấp kinh phí, không có trụ sở, tự đóng góp hội phí mà nuôi nhau thì Hội Nhà văn
sẽ chỉ còn con đường tan rã mà thôi. Vì số tiền hội phí thu từ 1,000 người trong Hội Nhà văn mỗi năm chưa được 6 triệu đồng,
chưa đủ đi thăm viếng một số đám ma!” .
Đó hẳn là cái lý để những nhà văn – quan chức như ông
Hữu Thỉnh hoàn toàn không mặn mà gì với Luật về Hội – một quyền căn bản của
công dân nhưng đã bị nhà cầm quyền bỏ xó suốt từ Hiến pháp năm 1992 đến nay.
Những năm gần đây, một nghịch lý đã nảy sinh trong bộ
máy “mặt trận” của chính quyền, là chính nhiều hội đoàn do nhà nước sinh ra và nâng đỡ đã bị ghẻ lạnh. Nguyên do rất đơn
giản: từ thiếu kinh phí đến cạn kiệt kinh phí sinh ra tình trạng thân ai đó lo
và có thể dẫn tới sống chết mặc bay.
Những nhà văn – quan chức như ông Hữu Thỉnh sẽ phải
làm gì để kiếm tiền nuôi một bộ máy chẳng khác mấy các ban đảng, cùng một đội
ngũ nhà văn không nghe – không thấy – không biết trước tình cảnh điêu đứng dân
sinh mà gần nhất là vụ cá chết Formosa và thủy điện xả lũ giết dân?
Mới đây, một nhà văn là Phạm Ngọc Tiến đã phải trút ra
bức bối qua bài “Sự im lặng xấu hổ đến mức tủi nhục của nhà văn VN”, trong đó
ông kể cho độc giả một phần, dù chỉ là một phần, về sự thật của đám đông giới cầm
bút văn học:
“…Ngay trên mạng xã hội khi có những bài viết dũng cảm
vạch tội Formosa thì cũng có rất ít nhà văn trong số những người sử dụng mạng
dám bày tỏ sự đồng tình dù chỉ là một nút bấm like. Điều gì vậy? Biển đảo Tổ quốc
bị xâm phạm, có bao nhiêu nhà văn bày tỏ chính kiến của mình?
Mới đây một phóng viên nữ hỏi tôi, tại sao trong những
biến cố của đất nước hiếm thấy nhà văn các anh lên tiếng? Có phải nhà văn cần sự
lắng đọng của thời gian để nghiền ngẫm mới phát biểu được bằng tác phẩm? Tôi chưa
kịp trả lời thì nữ phóng viên cũng là một nhà thơ này kết luận. Ngụy biện thôi, khi anh không dám mở miệng trước lâm nguy
dân tộc thì mặc
nhiên anh đã đứng ngoài cuộc, đứng ngoài số phận nhân dân. Tháng trước khi đi qua Hà Tĩnh, tôi ghé vào Kỳ Phương là một
phường của thị xã Kỳ
Anh chịu trực tiếp hậu quả biển nhiễm độc từ thảm họa Formosa. Khi biết tôi là
biên kịch của một vài phim chính luận có chút ít sự chú ý, người dân đã hỏi thẳng. Tại sao không làm phim về biển độc.
Phải có những bộ phim nói về chúng tôi chứ, đời sống của chúng tôi nếu các anh
không nói ra thì ai nói. Chúng tôi cần những phim như vậy. Trong cả hai trường hợp vừa nêu tôi đều im lặng.
Một sự im lặng xấu hổ đến mức tủi nhục…”.
Lê Dung
Lê Dung