Nguyễn Đình Cống
1-Giới thiệu
Khái niệm tham
nhũng chính sách (TNCS) chỉ mới xuất hiện trong thời gian vào đầu thế kỷ 21 và được
nhắc đến ngày càng nhiều. Trước đây chỉ
thỉnh thoảng gặp cụm từ “lợi dụng sơ hở” của chính sách hoặc luật pháp. Về những
việc này tôi biết khá nhiều, đã suy
nghĩ và lý giải nguồn gốc phát sinh, đã đọc vài chục bài báo với
những đầu đề như là : TNCS là cha của mọi tham nhũng, TNCS là vô cùng nguy hiểm,
TNCS làm đảo lộn xã hội, TNCS là hoạt động của nhóm lợi ích; Cần loại tận gốc
TNCS v.v…Rồi nào là Tập đoàn này nọ làm
giàu cực nhanh bằng TNCS, Nhận diện sự hiểm họa của TNCS, Nhận diện nguy cơ
tham nhũng từ khi hoạch định đường lối, nào là Đề phòng, ngăn chặn TNCS, Có
ngăn được TNCS không, ngăn bằng cách nào v.v…Lại có bài (của Thành Tâm) cho là
thực tế không có TNCS, cụm từ này chỉ là lối nói của văn Tây.
Qua thực tế cũng như qua các bài đọc được, tôi biết sự lo lắng, phẩn nộ của nhiều người trước cảnh TNCS càng ngày càng tăng, gây nên
những tổn thất vô cùng to lớn cho đất nước. Nhiều bài đã nêu lên được thực trạng
bi đát với dẫn chứng cụ thể và phân tích sâu sắc ( của Phạm Chi Lan, Nguyễn Minh
Thuyết, Nguyễn Sĩ Dũng, Mai Quốc Ấn, Sơn
Tràng, Nguyễn Anh Tuấn v.v…).Tuy vậy tôi chưa gặp được bài nào chỉ ra nguyên
nhân sâu xa, nêu được những trường hợp TNCS cộm cán, có tính quyết định. Cũng
đã có vài bài nêu các biện pháp khắc phục ( của Nguyễn Sĩ Dũng, Lưu Văn Quảng,
Thế Dũng, Lương Kết v.v…) nhưng hình như chỉ là “biện pháp gãi ngứa” chứ chưa
phải tìm được “thuốc đặc trị”. Tôi cũng
phát hiện được một vài luận điệu xảo trá, ngụy biện hoặc những lời hô hào suông
của một số quan chức cấp cao và bồi bút.
2-Phân biệt
TNCS và lợi dụng sơ hở của luật pháp
TNCS là việc lạm dụng quyền ban hành chính sách và luật
pháp nhằm mang lại lợi ích cho cá nhân / phe nhóm. Lợi dụng sơ hở của luật
pháp là việc phát hiện ra các sơ hở đó và vận dụng nó để kiếm lợi. Tuy hai việc
đều nhằm mang lại lợi ích cho cá nhân, nhưng khác nhau về cách tiến hành. Kẻ
TNCS chính là người làm hoặc tham gia làm ra các điều khoản của luật pháp, vì
có quyền lực, có mưu mô, giỏi lừa đảo. Người lợi dụng không tham gia làm chính
sách/luật pháp, họ nghiên cứu chúng để tìm những điểm có thể dùng hoặc tránh
(lách luật), nhằm kiếm lợi nhiều hơn, họ là người có trí tuệ. Dân Do Thái nổi
tiếng về khả năng lách luật để làm giàu. Nhìn ở góc độ khác kẻ TNCS cũng là người
lợi dụng sơ hở, nhưng sơ hở đó do chính họ tạo ra, còn bị nhiều người khác lợi
dụng.
Có ý kiến xem TNCS khác với tham nhũng quyền lực
(TNQL). Theo tôi thì TNCS nằm trong TNQL, nó là dạng cao nhất, thâm hiểm nhất của
TNQL, là sự tham nhũng vô cùng đểu cáng, vô cùng nguy hiểm, nhưng hợp với văn bản
luật pháp, được thực hiện ngang nhiên trước công luận.
Hình như trong nhiều nước không có khái niệm THCS vì họ
chỉ có luật pháp mà không có chính sách. Ở ta, đặt và gọi TNCS theo thói quen,
vì thường thì có chính sách rồi mới có luật pháp. Thật ra đó là tham nhũng dựa
vào luật pháp do mình tạo ra, là tham nhũng luật pháp.
3-Vài vụ TNCS
cộm cán hoặc tinh vi
TNCS gặp trong nhiều lĩnh vực và càng ngày càng tăng, càng chống càng phát
triển. Rất nhiều vụ từ to đến nhỏ, từ quy
mô toàn quốc đến địa phương đã được phanh phui. Dưới đây tôi chỉ xin kể vắn tắt
vài vụ cộm cán hoặc tinh vi.
Vụ TNCS lớn nhất là điều 4 của Hiến pháp, là Luật đất
đai. Hai thứ này nhiều người biết nhưng chưa dám công khai qui cho chúng là
TNCS chỉ vì quá nhạy cảm. Xin mọi người ngẫm nghĩ và phân
tích sẽ thấy.
Vụ TNCS lớn thuộc hàng đầu là công tác cán bộ bao gồm
từ việc độc quyền quyết định đến quy hoạch và tổ chức bầu bán. Về vấn đề này tôi đã viết bài “Phản biện đường lối
cán bộ cộng sản”, chỉ ra rằng theo đường lối đó, theo quy hoạch đó thì chủ yếu
chọn được bọn cơ hội có lắm chước quỷ mưu ma, là những tinh hoa dỏm và loại bỏ
những tinh hoa thực chất. Làm như vậy nhằm phục vụ các nhóm lợi ích, mà nhóm
to nhất, bao trùm nhất chính là ĐCSVN.
Về TNCS một cách tế nhị, xin kể 2 chuyện:
Chuyện 1- Kẻ đểu
lừa người ngu. Việt Nam đã khá thành công với
cuộc vận động mỗi cặp vợ chồng có không quá 2 con. Một số con cháu lãnh
đạo cao cấp chỉ có 2 con gái, rất muốn đẻ thêm, nhưng lại sợ vi phạm. Thế là bỗng
nhiên có pháp lệnh mới về dân số ra đời với điều khoản “ mỗi gia đình tự chọn số
con”. Kẻ đề ra điều này nhằm đến là giúp con cháu đẻ thêm một cách hợp pháp, nhưng
phải lừa được người thông qua và dư luận với lý do công khai là tôn trọng nhân
quyền. Người thông qua vì ngu hay sao đó
mà chấp nhận. Điều khoản này đồng thời tạo điều kiện cho hàng triệu gia đình
khác sinh đẻ thoải mái. Sau khoảng dăm sáu năm, do những tác động nào đó lại thấy
vận động kế hoạch hóa trở lại.
Chuyện 2- Lừa bịp bằng tiêu chuẩn. Ở cơ quan nọ tổ chức lấy ý kiến dân chủ về chức trưởng nhiệm kỳ mới. Dưới sự chỉ đạo của chức
trưởng đương nhiệm, tập thể lãnh đạo thảo
luận và thông qua 5 tiêu chuẩn để chọn người. Ba tiêu chuẩn đầu được thông qua
nhanh chóng, số người đạt được gần hai chục. Tiêu chuẩn 4 và 5 được thảo luận
khá gay cấn vì xem ra toàn cơ quan chỉ có vài ba người đạt được tiêu chuẩn 4 và
chỉ 1 người có được tiêu chuẩn 5. Người
đó không ai khác là chức trưởng đương
nhiệm.
4-Nguyên nhân
cơ bản và biện pháp phòng chống
Nhiều người đã tìm nguyên nhân của TNCS từ những “bất
cập” của cán bộ và cơ chế. Họ chỉ ra nào là sự hạn chế về kiến thức và kinh
nghiệm của người làm chính sách, của người soạn luật và thẩm định luật, sự thiếu
minh bạch, sự sơ sài, thiếu chặt chẽ trong việc kiểm tra và thông qua luật, họ
đổ lỗi cho một số người “buôn cơ chế”, đổ lỗi cho bọn thoái hóa biến chất, cho
các nhóm lợi ích. Có thể họ còn biết nguyên nhân khác quan trọng hơn nhưng vì tế
nhị, vì sợ mà chưa dám nói ra.
Tôi cho rằng nguyên nhân cơ bản của TNCS, cũng giống
như của nhiều tệ nạn khác là “Sự kết hợp và cộng hưởng giữa một bên là những yếu
kém trong văn hóa và truyền thống dân tộc và một bên là những độc hại của Chủ
nghĩa Mác Lê”. Yếu kém rõ nhất trong truyền thống là thói tham lam ích kỷ, nó
đóng vai trò mầm mống. Độc hại chủ yếu là độc quyền đảng trị, nó đóng vai trò
môi trường thuận lợi. Chính sự kết hợp này làm sinh ra và nuôi dưỡng các bất cập
về cán bộ và thể chế.
Tại sao lại để người thiếu kiến thức và kinh nghiệm
làm luật và người thông qua luật (đại biểu
Quốc hội) có trình độ thấp. Tại vì đa số tinh hoa của dân tộc đã bị chuyên
chính vô sản loại ra khỏi Quốc hội và Chính quyền.
Để phòng chống nạn TNCS một số nhà nghiên cứu đã đề xuất
các biện pháp liên hoàn. Nào là nâng cao trình độ cán bộ soạn thảo và thẩm định,
minh bạch và nghiêm túc trong giải trình và xét duyệt, nào là tăng cường các
nghị quyết, nâng cao phẩm chất đạo đức, đề cao việc nêu gương, đẩy lùi suy
thoái tư tưởng; nào là cắt bỏ giấy phép con, bỏ chế độ xin cho, ban hành khuôn
khổ pháp lý, lập cơ quan chuyên sàng lọc chính sách , pháp luật, thực hiện cơ
chế 3 không đối với TNCS (không thể, không dám, không muốn), nào là tăng cường
sự phản biện, tăng cường vai trò báo chí
v.v và v.v…. Những biện pháp vừa nêu xét ra không sai, nhưng chỉ nhằm gãi ngứa nếu vẫn giữ nguyên thể chế độc
quyền toàn trị.
Để phòng chống, tiến đến bài trừ mọi loại tham nhũng,
trong đó có TNCS thì cần loại bỏ nguyên nhân cơ bản sinh ra và nuôi dưỡng chúng.
Việc loại bỏ các yếu kém trong truyền thống chỉ có thể làm từ từ và lâu dài với
nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí. Việc quan trọng và tương đối cấp thiết là loại
bỏ độc hại của CN Mác Lê, thực hiện chế độ dân chủ với tam quyền phân lập. Có
như thế người dân mới chọn được thành phần tinh hoa, liêm khiêt đưa vào các bộ máy dân cử và chính quyền. Sẽ
là thuận lợi cho dân tộc khi lãnh đạo đất nước hiểu ra và thực hiện điều đó. Nếu
vì lợi ích nhóm mà họ ngoan cố chống lại thì nhân dân cần tìm con đường khác. Về
lâu dài thì chính nhân dân mới quyết định vận mệnh của mình, có chấp nhận cho bọn
tham nhũng hoành hành mãi hay không.