Lưu Dân
(Viết, nhân đọc một tin… tức mình)
Huế là xứ thơ. Có lẽ do các yếu tố lịch
sử, phong cảnh và nếp sống, vùng đất sông Hương núi Ngự là nơi sản sinh ra nhiều
nhà thơ – cả nổi tiếng lẫn khét tiếng. Nếu kể hết tên, chắc chắn sẽ thiếu sót.
Bài này chỉ viết lơn tơn – không phải với mục đích phê bình văn học hoặc tài liệu
giáo khoa gì ráo – về hai tác giả mà cuộc đời và sự nghiệp có những liên hệ oái
oăm về thân tộc và chỗ đứng của họ trên văn đàn và trong lòng độc giả.
Tố Hữu, bia miệng
để đời
Theo tin của một
số báo trong nước, đầu năm nay (2019) một khu lưu niệm nhá thơ Tố Hữu sẽ được
xây dựng tại thôn Tân Xuân Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền thuộc tỉnh Thừa
Thiên Huế "nhằm tri ân những đóng góp của ông cho sự nghiệp đấu
tranh cách mạng, xây dựng đất nước, góp phần giáo dục truyền thống và tạo điểm
tham quan góp phần phát triển kinh tế - xã hội địa phương”.
Kinh phí dự trù – chỉ mới dự trù thôi, chưa kể phần
“chi phí phát sinh” thường thấy trong các dự án công cộng ở Việt Nam – là 28 tỷ
đồng, lấy từ ngân sách nhà nước (tức tiền thuế của dân).
Để bạn có thể hình dung, khoản tiền ấy (hơn 1 triệu
Mỹ kim) bằng chi phí xây dựng khoảng 10 trường tiểu học hoặc 10 bệnh xá cấp xã
– không tính đến giá trị của diện tích đất khá lớn ở vị trí đắc địa của huyện.
Ừ, thì UBND Thừa Thiên – Huế có lý do để làm như vậy
vì ông Tố Hữu không chỉ là một nhà lãnh đạo của đảng CSVN mà còn được coi như
“nhà thơ cách mạng hàng đầu” của chế độ. Với họ, việc xây dựng khu lưu niệm là
ưu tiên hơn 10 trường tiểu học hoặc 10 bệnh xá ở tỉnh miền trung “mùa đông thiếu
áo, hè thời thiếu ăn” này.
(Thật ra, khi còn sinh tiền, ông Tố Hữu khiêm nhượng
nhận mình đứng… thứ nhì. Dĩ nhiên, người được xếp hạng trên ông là… “bác”, tác
giả được bộ máy tuyên truyền của chế độ thổi lên như “nhà thơ vĩ đại nhất của
dân tộc sau Nguyễn Trãi” và cũng là người viết nhiều quyển sách tự ca tụng mình
dưới các bút hiệu khác nhau).
Cuộc đời và sự nghiệp của Tố Hữu (1920 – 2002) được
chia làm hai phần (không hoàn toàn rõ rệt vì chúng chồng lấn nhau): làm quan và
làm thơ. Khi làm quan, ông cũng làm thơ ca tụng chế độ và khi làm thơ, ông viết
những bài đầy chất miệng nhà quan.
Đời làm quan của
Tố Hữu là một thất bại hiển nhiên. Khi ông đạt đến ngôi vị quan trường cao nhất
cũng là lúc người dân sáng tác câu vè mỉa mai “Nhà thơ làm kinh tế / Thống chế
đi đặt vòng”. [1]
Nhà thơ Tố Hữu và tập thơ Theo Chân Bác |
Đời làm thơ của Tố Hữu càng thảm hại hơn. Dù đã in
hàng chục tập thơ và các sáng tác của ông được giảng dạy rộng khắp từ bậc tiểu
học lên đến đại học trong nhiều thập niên, nhưng sự nghiệp văn chương của Tố Hữu
ngày nay chỉ còn lại một cái bỉu môi kinh tởm bởi những người cầm bút cùng thời
và thế hệ kế tiếp.
Họ không còn muốn
đọc – và thậm chí, không thèm đọc – những bài thơ chiến đấu đầy tính “lãng mạn
cách mạng” của thời Việt Bắc, Theo Chân Bác, Ba
Mươi Năm Đời Ta Có Đảng hoặc Từ Ấymà chỉ nhớ những
đòn thù dã man của Tố Hữu vì tư oán và ghen tài đối với những văn nghệ sĩ chân
chính chỉ viết theo lương tâm của người cầm bút.
Trường hợp Nhân Văn – Giai Phẩm ở miền Bắc (từ năm
1955-58) là một ví dụ rõ nét nhất. Cuộc đời oan khiên, bầm dập, tan nát của những
tài hoa kiệt xuất trong nền văn học nước nhà như Trần Dần, Phùng Quán, Hữu
Loan, Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Quang Dũng, Hoàng Cầm, Văn Cao, Phùng Cung…
không thể nào đổ thừa cho ai khác ngoài Tố Hữu, Thứ trưởng Bộ Tuyên truyển
kiêm “Quan đầu ngành” kiểm soát tư tưởng của giới văn nghệ sĩ miền Bắc.
Khi Nhân Văn – Giai Phẩm bùng nổ, Tố Hữu đã
thẳng tay ra lệnh đàn áp, bắt bớ các thành viên cột trụ của phong
trào. Tuy ngày nay vụ oan khuất Nhân Văn – Giai Phẩm đã sáng tỏ và các nạn
nhân được phục hồi danh dự nhưng Tố Hữu vẫn dửng dưng như người vô can
mặc dù nhiều người trong cuộc chỉ đích danh ông ta là kẻ bách hại tự do
sáng tác của phong trào này.
Nhà thơ Tố Hữu (bên trái) và Tổng Bí thư Lê Duẩn |
Hãy nghe một vài nhận định tiêu biểu trong giới cầm
bút ở cả hai miền, cùng và sau thế hệ của Tố Hữu:
Nhà văn Nguyễn Viện, một người bất đồng chính kiến
sống tại Sài Gòn, cho rằng thơ của Tố Hữu không hay, thơ của ông nặng tính
tuyên truyền, đôi khi đến nỗi khát máu và nịnh bợ quá đáng.
Nhà thơ Hoàng Hưng, sống ở miền Bắc, thuộc thế hệ
những văn nghệ sĩ từng bị đàn áp trong vụ Nhân Văn – Giai Phẩm, đồng ý rằng thơ
Tố Hữu một thời đã thấm sâu vào dân chúng còn hơn cả ca dao nhưng vẫn là thơ
tuyên truyền.
“Ngoài cái việc chung (phục vụ cho chế độ) thì ông Tố Hữu còn có
cái tư thù, vì nhóm Nhân Văn dám làm một cuộc hội thảo để phê bình tập thơ Việt
Bắc của ông ấy, trong đó có hai người là Trần Dần và Hoàng Cầm.”
Một bài thơ của Tố Hữu được phổ biến và học tập rộng
rãi trong thời Cải cách Ruộng đất, lại là những câu sát máu rợn người và vong bản
tột cùng:
Giết, giết nữa, bàn
tay không phút nghỉ.
Cho ruộng đồng lúa
tốt, thuế mau xong,
Cho đảng bền
lâu, cùng rập bước chung
lòng,
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Sít-ta-lin
bất diệt
Hoặc những câu thơ vô sỉ như thế này đã và vĩnh viễn
là vết nhơ trong dòng thơ hiện đại Việt Nam, kể cả dòng thơ cách mạng:
Áo Ông trắng giữa
mây hồng
Mắt Ông hiền hậu,
miệng Ông mỉm cười
Stalin!
Stalin!
Yêu biết mấy, nghe
con tập
nói
Tiếng đầu lòng con
gọi Stalin!
….
Thương cha, thương
mẹ, thương chồng
Thương mình thương
một, thương Ông thương mười.
Ngay cả những bài thơ về tình yêu của Tố Hữu cũng
“thấm đẫm tính đảng”:
Tim anh đó chia ba
phần tươi đỏ
Anh dành riêng cho
Đảng phần nhiều
Phần cho thơ và phần
để em yêu
Em khẽ bảo thế cũng
nhiều anh nhỉ... [2]
Việt Nam là nơi có nhiều khu lưu niệm,
tượng đài, bia đá nhiều nhất thế giới, một kỷ lục mà quan chức nhà nước rất tự
hào. Người ta đua nhau xây dựng các công trình đó – để làm gì, ai cũng biết –
dù có khi những nhân vật / sự kiện được lưu niệm chỉ là sản phẩm của sự lừa dối
(như anh hùng Lê Văn Tám tẩm xăng chạy vào đốt trại giặc, liệt sĩ Võ Thị Sáu
cài hoa lê-ki-ma lên mái tóc trên đường ra sân bắn, Phan Đình Giót lấy thân
mình lấp lỗ châu mai...).
Tố Hữu không là một trường hợp như vậy. Ông ta là
con người với những câu chuyện có thật còn rỉ máu một thời chuyên chính vô sản.
Ông ta có xứng đáng được người dân lưu niệm, lập bia hay không?
Nhà thơ Đỗ Trung
Quân, tác giả của bài thơ Bài Học Đầu Cho Con được
phổ nhạc với tựa Quê Hương (là chùm khế ngọt), một
người cầm bút thuộc thế hệ sau ở miền Nam, nhận xét về Tố Hữu:
“Ông ấy là một nhà thơ nổi tiếng, nổi tiếng theo kiểu là hàng đầu của
văn học cách mạng. Nhưng đó là chuyện của cách mạng, không phải là chuyện của
tôi… Cứ xây đi (khu lưu niệm Tố Hữu), để sau này người ta còn có cái để mà hạ
xuống.”
Mới hay ông bà mình từ xưa nói chẳng hề sai:
Trăm năm bia đá
cũng mòn
Ngàn năm bia miệng
vẫn còn trơ trơ
Phùng Quán, nhà
thơ chân thật
Tuy quan điểm
sáng tác và vị trí xã hội khác nhau – và đối nghịch nhau – nhưng, như một định
phận trớ trêu, Phùng Quán (1932 – 1995) và Tố Hữu lại có quan hệ thân tộc với
nhau. Trong tác phẩm “Ba phút sự thật”,
Phùng Quán viết ông gọi Tố Hữu bằng cậu nhưng thực ra Tố Hữu là bác (anh ruột của
mẹ) của ông, theo cách xưng hô của người Bắc.
Phùng Quán bắt đầu
viết từ rất sớm, khoảng năm 20 tuổi, phần lớn là văn. Ông nổi tiếng ngay với
tác phẩm đầu tay “Vượt Côn Đảo”, được giải thưởng của
Hội Nhà văn Việt Nam năm
1955 [3]. Nhưng sự nghiệp của Phùng Quán thật sự đi vào văn học sử - và cuộc đời
ông cũng bắt đầu bị cuốn xoáy xuống tận cùng oan nghiệt vì họa văn tự - sau hai
bài thơ “Lời Mẹ dặn” và “Chống tham ô lãng phí” đăng
trong Nhân Văn – Giai Phẩm năm 1957. Gần như lập tức, hai bài thơ này được coi
như tuyên ngôn lương thức của giới văn nghệ sĩ miền Bắc lúc ấy.
Phùng Quán bị kỷ luật, tống xuất khỏi quân đội và bị
tước tư cách hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam. Từ ấy, ông bị lưu đày trong các
trại tù cải tạo ở nhiều nơi và sống lây lất với kiếp “câu trộm, rượu chịu, văn
chui” [4] suốt gần 30 năm cho đến thời kỳ “đổi mới” giữa thập niên 1980, khi
các thành viên của Nhân Văn – Giai Phẩm được phục hồi danh dự.
Trong suốt thời gian bầm dập đó, tên tuổi Phùng
Quán hầu như biến mất trên văn đàn dù ông vẫn “viết chui” (lấy tên người khác)
và nhận được một số giải thưởng lớn (vẫn do... người khác lãnh) [5].
Phùng Quán chỉ
chính thức cầm bút lại năm 1988 với quyển tiểu thuyết “Tuổi thơ dữ dội” đoạt Giải thưởng
Văn học Thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam. Ông cũng đã sáng tác nhiều bài thơ giá trị như Hoa sen, Hôn, Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe...
Oái oăm thay,
năm 2007, tức 12 năm sau khi ông qua đời, Chủ tịch nước CHXHCNVN ký quyết định
truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật cho Phùng Quán (cùng với Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm).
Không biết dưới suối vàng ông có vui lòng lãnh nhận giải thưởng này không để
đánh đổi cả cuộc đời bị đọa đày tủi nhục.
Nhà thơ Phùng Quán (1932-1995) |
Thơ Phùng Quán,
đặc biệt là bài Lời Mẹ dặn (viết khi tác giả mới
25 tuổi), như kể chuyện, đơn giản đến mức ai cũng có thể viết được, nhưng nó lại
có một sức hút kỳ lạ khó cưỡng vì chứa đựng một lý tưởng nhân văn thuần khiết
và cao đẹp:
Tôi mồ côi cha năm
hai tuổi
Mẹ tôi thương con không lấy chồng
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
Nuôi tôi đến ngày lớn khôn.
...
Mẹ tôi thương con không lấy chồng
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
Nuôi tôi đến ngày lớn khôn.
...
Rồi đến lúc lớn khôn, Mẹ dạy:
Yêu ai cứ bảo là
yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu
...
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu
...
Đến khi trở thành nhà văn, tác giả tự nguyện:
Tôi muốn làm nhà
văn chân thật
Chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.
Chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.
Hơn nửa thế kỷ
qua, bài thơ đã trở thành tài sản tâm hồn của nhiều thế hệ độc giả ở cả hai miền
Nam Bắc. Chẳng có gì lạ mà sau này, trong tuyển tập 100 bài thơ Việt hay nhất
thế kỷ 20 của Trung tâm Văn hóa Doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo dục, Lời Mẹ Dặn được trang trọng in lại, dù vì nó mà
tác giả đã long đong gần suốt một đời.
Dịch giả Nguyễn
Hiệu, nguyên Trưởng ban Tu thư của Đại học Vạn Hạnh và cũng là một bạn tâm giao
với Phùng Quán, đã đưa ra lý do sâu xa của sự thù hận và trù dập ấy. Ông cho rằng
bài thơ mang đậm tính phản kháng, trực tiếp chạm đến một nhân vật mà ai cũng biết,
đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nguyễn Hiệu nhận xét:
"Bài Lời Mẹ Dặn
nó có một ý nghĩa lớn. Đối với Phùng Quán, với tôi và rất nhiều người bởi vì
bài thơ ấy anh viết năm 25 tuổi thôi nhưng anh đã nói những điều đại
kỵ đối với miền Bắc trong ấy có bốn câu “Yêu ai cứ bảo là yêu / Ghét ai cứ
bảo là ghét / Dù ai ngon ngọt nuông chiều / Cũng không nói yêu thành
ghét / Dù ai cầm dao dọa giết cũng không nói ghét thành yêu.”
Những câu này trực
tiếp nhắm vào Hồ Chí Minh và nhắm vào giáo dục miền Bắc tức là không ai yêu Hồ
Chí Minh cả nhưng mà từ nhỏ tới lớn mọi người được dạy là ai yêu bác Hồ Chí
Minh hơn chúng em nhi đồng? Cái câu của Phùng Quán bảo “Yêu ai cứ bảo là
yêu / Ghét ai cứ bảo là ghét” là câu chạm nọc họ kinh khủng lắm.
Cho nên đến năm
1995 thì họ muốn xoa dịu những người trong Nhân Văn - Giai Phẩm, họ hứa
in cho mỗi người một tập thơ và 5 triệu tiền nhuận bút thế nhưng họ bảo với
Phùng Quán là phải bỏ bài thơ “Lời Mẹ Dặn” ra, Phùng Quán nhất định không chịu
và sau khi anh chết họ mới chịu in bài thơ này."
Phần mộ của Nhà thơ Phùng Quán và Nhà giáo Vũ Thị Bội Trâm |
Phùng Quán mất
ngày 22.01.1995 (cũng là ngày sinh của ông) tại Hà Nội. Sau khi vợ ông, nhà
giáo Vũ Bội Trâm, qua đời năm 2010, thể theo lời di chúc của ông: Tôi sẽ đào nấm huyệt / Cạnh mồ cha mẹ tôi, gia đình đã
đưa hài cốt ông bà về cải táng (năm 2011) tại quê nhà ở làng Thanh Thủy Thượng,
thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Phần mộ trang nhã và khiêm tốn của họ - do bạn bè
và những người ái mộ trong và ngoài nước quyên góp xây dựng (không phải 28 tỷ đồng
trích từ ngân sách nhà nước) – chỉ chiếm một diện tích khoảng 20 mét vuông, nằm
thoai thoải trên một triền đồi nhỏ, nhìn xuống một hồ nuôi cá và, cách đó không
xa, một con đường làng nhỏ mang tên ông với một “Quán nhậu bình dân Phùng
Quán”.
Từ nay, Phùng Quán vĩnh viễn thoát khỏi cuộc đời
“câu trộm, rượu chịu, văn chui” vì không ai còn có thể giam hãm hoặc cấm đoán một
hồn thơ khẳng khái và chân thật của ông được. Hồ cá trước mặt, quán nhậu bên cạnh
và văn của ông đã được người đời khắc lên trên đá.
(Nếu bạn có dịp đến thăm, ngôi mộ Nhà
thơ Phùng Quán và Nhà giáo Vũ Thi Bội Trâm nằm cách Thành phố Huế khoảng 6km về
phía nam, trên đường đi phi trường Phú Bài. Bạn phải để ý kỹ vì chỉ có một tấm
bảng nhỏ phía tay mặt ghi dòng chữ “Mộ Phùng Quán” dẫn vào một hương lộ có thể
chạy xe hơi, khoảng 10 phút là tới.)
Theo lời kể của
một người bạn thân trong gia đình, Phùng Quán đã có lần đến thăm Tố Hữu, khi
người cậu là quan chức cao cấp của chế độ và đứa cháu lại là một nhà thơ phản động.
Hai người chỉ dấm dẳng dăm câu vì không hợp nhau. Đại khái Tố Hữu có lời khuyên
gì đó nhưng Phùng Quán không nghe và bỏ về. Sau, Tố Hữu lại nhắn: “Quán, đừng dại nữa!” Nghe chuyện, Phùng Quán cười: “Mình dại lâu rồi, nhưng chỉ muốn làm người chân thật.”
Bây giờ, cả hai đều đã trở thành người thiên cổ.
Thế mới hay, khôn (như Tố Hữu) cũng chết, mà dại
(như Phùng Quán) cũng chết. Một khu lưu niệm hàng ngàn mét vuông trị giá tiền tỷ
hay một phần mộ nho nhỏ tha hồ gió reo trên đồi cũng như nhau thôi. Chỉ còn lại
trơ trơ ngàn năm một tấm bia miệng.
*************
[1] Câu vè này nói về Tố Hữu và Võ Nguyên Giáp. Tố
Hữu từng nắm chức vụ Phó Thủ tướng phụ trách về kinh tế trong những năm 1980.
Quyết định của Tố Hữu về “Giá, Lương, Tiền” đã khiến tốc độ lạm phát của Việt
Nam lúc ấy tăng đến 770%. Trong thời gian này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng bị
hạ tầng công tác do sự đấu đá nội bộ, Ông ta bị sỉ nhục bởi “công tác đảng
giao” về làm Chủ tịch Ủy ban Sinh đẻ có kế hoạch.
[2] Đoạn thơ này
sau năm 1975 bị dân cà-phê vỉa hè “nhái” lại để mô tả hiện tượng cán bộ CS hủ
hóa, bỏ bê gia đình chạy theo đào nhí: Lương anh đó chia ba phần to nhỏ
/ Anh dành riêng cho bả phần nhiều / Phần bao em và phần để anh tiêu / Em sẽ bảo
thế cũng liều anh nhỉ...
[3] Trong một
bài viết của nhà văn Nguyễn Quang Lập, Phùng Quán thú nhận truyện Vượt Côn Đảo là… bịa. Hồi đó, ông nghe người ta kể
lại một phần ông bịa ra chín phần. “… Cho đến ngày anh (PQ) ngồi kể
cho mình (NQL) nghe, khoảng năm 85 – 86 chi đó, anh vẫn chưa biết Côn Đảo méo
hay tròn. Trong đó có mấy câu anh tả con đường từ nhà tù ra Bãi Dương (trường bắn)
được lót xương của các tù nhân bị án tử hình. Là anh bịa ra thế để nâng cao
lòng căm thù Đế quốc thực dân chứ xương người làm sao lót được đường. Chẳng ngờ
trong hồi ký của một ông ở tù Côn Đảo về (ông này nổi tiếng lắm, không dám nêu
tên) khi viết về con đường này cũng tả y chang như anh, cũng con đường lót
xương các tù nhân…”
“Cũng chuyện tù Côn
Đảo, trong Trường ca Võ Thị Sáu, anh (PQ) viết tuổi 16 chị Sáu vẫn
hái hoa lê-ki-ma cài tóc. Buổi sáng ngày bị hành hình, chị đã ngắt một
nhành hoa lê-ki-ma cài lên mái tóc, trên đường ra pháp trường, vừa đi vừa hát.
Anh đâu biết lê-ki-ma là cây gì, nghe cái tên đẹp thì tưởng hoa của nó chắc đẹp
lắm. Sau này mới biết lê-ki-ma thực ra là cây quả trứng gà, hoa đã xấu lại
đầy nhựa, “ngắt một nhành hoa cài mái tóc” có mà dở hơi… Anh Quán cười khà
khà, nói sau này hễ viết về chị Võ Thị Sáu thì người ta lại
bê nguyên chi tiết này vào, vui quá là vui.”
[4] “Sinh kế” của Phùng Quán trong suốt quãng đời bị
trù dập là câu cá trộm (không có giấy phép) vào ban đêm ở các hồ quanh Hà Nội,
nhiều nhất là ở Hồ Tây. Ông trở thành “thợ câu” do sự giúp đỡ và che chở của
vài người bạn lính trong đơn vị cũ hâm mộ thơ ông. Ban đầu, ông không biết nghề,
chật vật lắm mới đủ một bữa “cơm đầu ghế” (ngày nay gọi là cơm bụi), nhưng về
sau ông trở thành một “chuyên gia bậc nhất” trong giới câu trộm. Phùng Quán
tính rằng trong thời gian đăng đẳng đó, ông đã câu trộm được 4 tấn cá. Ông hứa
rằng khi được “trở lại đời”, ông sẽ đến chợ Đồng Xuân lạy tạ những bà hàng đã
mua cá chui của ông và đền cho họ những sáng tác tim óc của mình… cho công bằng.
[5] Khoảng năm
1969-70, Phùng Quán mượn tên một người em họ đang làm công nhân lâm trường ở
Nghệ An để gửi bài dự thi viết về Lenin do tờ Phụ nữ Liên Xô tổ chức. Mục đích
của ông là cố giật… giải an ủi, với phần thưởng là chiếc đồng hồ báo thức cho
con gái đi học khỏi trễ giờ. Với thân phận phản động hạng nặng, Phùng Quán làm
gì dám mơ một thứ hàng xa xỉ như vậy mà chỉ có cán bộ cấp cao mới có sổ mua.
Nào ngờ, truyện ngắn Như con cò vàng trong cổ tích mà ông viết ngoáy trong hai ngày lại… chiếm giải nhất, với phần thưởng
là một chiếc xe đạp. Báo hại người em họ của ông vừa lãnh giải thưởng văn học
vào hạng giá trị nhất của Liên Xô vừa… đái trong quần, vì được báo đài cả miền
Bắc ca tụng như “sản phẩm trí tuệ của giai cấp công nhân Viet Nam”. Sau này,
khi biết tác giả thật, bộ máy tuyên truyền của chế độ cũng tắt tiếng luôn.
****************
Nguồn:
SBS Radio, Australia – Vietnamese.
https://www.sbs.com.au/yourlanguage/vietnamese/vi/article/2019/02/26/blog-hai-nha-tho-hue?language=vi