06 octobre 2018

Chiến tranh Lạnh và ảo giác chiến thắng của người Mỹ



Nguồn: Odd Arne Westad, The Cold War and America’s Delusion of VictoryThe New York Times, 28/08/2017.

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng


Chiến tranh Lạnh trong vai trò một hệ thống nhiều quốc gia đã kết thúc vào một ngày tháng mười hai lạnh giá và xám xịt ở Moskva vào năm 1991, khi Mikhail Gorbachev ký một văn bản tuyên bố chấm dứt sự tồn tại của Liên bang Xô viết. Bản thân chủ nghĩa cộng sản, dưới dạng thức chủ nghĩa Marx – Lenin, đã không còn tồn tại như một lý tưởng thực tế về cách tổ chức xã hội.


“Nếu tôi được chọn lại một lần nữa, tôi thậm chí sẽ không là một người cộng sản,” Todor Zhivkov, một nhà lãnh đạo cộng sản bị lật đổ của Bulgaria, từng nói một năm trước đây. “Và nếu Lenin còn sống hôm nay, ông cũng sẽ nói như vậy. Giờ đây tôi phải thừa nhận rằng chúng ta đã bắt đầu từ một cơ sở sai lầm, từ một tiền đề sai lầm. Nền tảng của chủ nghĩa xã hội là sai lầm. Tôi tin rằng ý tưởng về chủ nghĩa xã hội đã chết yểu ngay khi thành hình.”

Tuy nhiên, Chiến tranh Lạnh xét từ khía cạnh một cuộc đấu tranh về ý thức hệ chỉ biến mất phần nào, mặc cho sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản. Về phía người Mỹ, chẳng có mấy thay đổi vào ngày hôm đó. Chiến tranh Lạnh đã kết thúc, và Mỹ đã thắng. Nhưng hầu hết người Mỹ vẫn tin rằng họ chỉ có thể được an toàn nếu thế giới trông giống như đất nước họ và nếu các chính phủ của thế giới tuân theo ý muốn của đất nước họ.

Những ý tưởng và giả định đã được xây dựng qua nhiều thế hệ vẫn tiếp tục tồn tại, ngay cả khi mối đe dọa từ Liên Xô đã biến mất. Thay vì một chính sách đối ngoại có giới hạn và có thể đạt được cho nước Mỹ, hầu hết các nhà hoạch định chính sách của cả hai đảng đều tin rằng Mỹ có thể, với chi phí hoặc rủi ro tối thiểu, hành động theo ý chí của mình.

Chủ nghĩa đắc thắng của Mỹ thời hậu Chiến tranh Lạnh đã có hai phiên bản. Thứ nhất là phiên bản của Clinton, thúc đẩy một nghị trình về thịnh vượng nhờ các giá trị thị trường trên quy mô toàn cầu. Sự thiếu vắng tính mục đích trong các vấn đề quốc tế của chính sách này là rõ ràng, nhưng bản năng chính trị nội bộ của nó có lẽ đúng: người Mỹ đã mệt mỏi với những can dự ở nước ngoài và muốn được hưởng thụ “cổ tức hòa bình.”

Kết quả là thập niên 1990 trở thành cơ hội bị đánh mất cho hợp tác quốc tế, đặc biệt là chống lại bệnh dịch, đói nghèo và bất bình đẳng. Những ví dụ rõ ràng nhất về các thiếu sót này là những chiến trường Chiến tranh Lạnh cũ như Afghanistan, Congo và Nicaragua, nơi mà người Mỹ rất ít quan tâm đến những gì đã xảy ra – một khi Chiến tranh Lạnh kết thúc.

Thứ hai là phiên bản của Bush. Trong khi Bill Clinton nhấn mạnh đến sự thịnh vượng, George W. Bush nhấn mạnh đến ưu thế áp đảo của Hoa Kỳ. Và giữa hai phiên bản này, tất nhiên, là sự kiện ngày 11/09/2001. Rất có thể, phiên bản của Bush sẽ không bao giờ xuất hiện nếu không có những cuộc tấn công khủng bố ở New York và Washington gây ra bởi những tín đồ Hồi giáo cuồng tín (mà thực ra, là một nhóm phản bội tách ra từ một đồng minh thời Chiến tranh Lạnh của Mỹ).

Trải nghiệm Chiến tranh lạnh rõ ràng đã định hình phản ứng của Mỹ trước những hành động tàn bạo này. Thay cho các cuộc tấn công nhắm vào mục tiêu quân sự và sự hợp tác của cảnh sát toàn cầu, điều vốn dĩ là phản ứng hợp lý nhất, chính quyền Bush đã chọn thời điểm mà bá quyền toàn cầu không bị thách thức này để xâm lược và chiếm đóng Afghanistan và Iraq. Những hành động này là không có ý nghĩa xét về mặt chiến lược, tạo ra các thuộc địa ở thế kỷ 21 dưới sự cai trị của một cường quốc vốn chẳng có chút khát khao nào với chế độ thuộc địa.

Nhưng người Mỹ đã không hành động vì mục đích chiến lược. Họ hành động vì người dân nước họ, cũng dễ hiểu, đã tức giận và sợ hãi. Và họ đã hành động chỉ bởi họ có thể. Phiên bản của Bush được chỉ đạo bởi các cố vấn chính sách đối ngoại, những người nhìn nhận thế giới chủ yếu qua lăng kính Chiến tranh Lạnh; họ nhấn mạnh viện triển khai quyền lực, kiểm soát lãnh thổ và thay đổi chế độ.

Thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh vì thế không phải là một sự chệch hướng, mà là một sự tiếp nối và khẳng định mục đích lịch sử tuyệt đối của nước Mỹ. Tuy nhiên, qua hơn 30 năm kể từ sau Chiến tranh Lạnh, Mỹ đã dần trở nên ngày càng ít khả năng chiếm ưu thế trên toàn cầu.

Khi nước Mỹ bước sang một thế kỷ mới, mục đích chính của họ nên là đưa các quốc gia khác vào trong khuôn khổ quy chuẩn quốc tế và pháp quyền, đặc biệt khi sức mạnh của chính họ đang giảm sút. Thay vào đó, người Mỹ lại làm những điều mà các cường quốc đang suy yếu khác đã từng làm: tham gia các cuộc chiến tranh vô ích và không cần thiết ở xa biên giới, nơi mà an ninh ngắn hạn bị nhầm lẫn với các mục tiêu chiến lược dài hạn. Hệ quả là một nước Mỹ ít được chuẩn bị để đối mặt với những thách thức lớn của tương lai: sự trỗi dậy của Trung Quốc và Ấn Độ, chuyển giao quyền lực kinh tế từ Tây sang Đông, và các thách thức mang tính hệ thống như biến đổi khí hậu và dịch bệnh.

Nếu người Mỹ đã thắng Chiến tranh Lạnh nhưng thất bại trong việc tận dụng lợi thế đó, thì Liên Xô, hay chính xác hơn là Nga, đã thua, và thua rất đậm. Sự sụp đổ khiến người Nga cảm thấy mình bị thất thế và bị chiếm mất vị trí vốn có. Ngày đó, họ là đất nước nổi bật nhất trong một liên bang siêu cường của các nước cộng hòa. Và ngày hôm sau, họ chẳng có mục đích lẫn vị trí. Về cơ bản, mọi thứ đều tồi tệ. Những người già không nhận được lương hưu. Một số bị chết đói. Suy dinh dưỡng và nghiện rượu làm giảm tuổi thọ trung bình của người Nga từ gần 65 tuổi vào năm 1987, xuống còn dưới 58 tuổi vào năm 1994.

Nếu nhiều người Nga cảm thấy mình bị cướp mất tương lai, họ không sai. Tương lai của nước Nga thực sự bị đánh cắp – bởi việc tư nhân hóa các ngành công nghiệp và  các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Khi nhà nước xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế đang hấp hối bị hủy hoại, một hệ thống đầu sỏ kinh tế mới xuất hiện từ các tổ chức đảng, các phòng kế hoạch, các trung tâm khoa học và công nghệ, và chiếm quyền sở hữu tài sản của nước Nga. Thông thường, chủ sở hữu mới tước đoạt các tài sản này và cho đóng cửa sản xuất. Trong một đất nước từng có tỷ lệ thất nghiệp không tồn tại, ít nhất là theo thống kê chính thức, thì đến thập niên 1990, tỷ lệ thất nghiệp đã tăng lên đến 13%. Tất cả những điều này xảy ra trong khi phương Tây hoan nghênh cải cách kinh tế của Boris Yeltsin.

Khi nhìn lại, quá trình chuyển đổi kinh tế sang chủ nghĩa tư bản là một thảm hoạ cho hầu hết người Nga. Rõ ràng là phương Tây nên ứng xử với một nước Nga hậu Chiến tranh Lạnh tốt hơn những gì họ đã làm. Cả Nga và phương Tây ngày nay chắc chắn sẽ trở nên an toàn hơn nếu cơ hội cho Nga gia nhập Liên minh châu Âu, và thậm chí cả NATO, ít nhất đã được giữ lại trong những năm 1990.

Thay vào đó, việc họ bị loại trừ tạo cho người Nga cảm giác bị bỏ rơi và là nạn nhân. Điều này lại khiến họ tin tưởng vào những người theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan như Tổng thống Vladimir Putin, người đã coi tất cả những thảm hoạ xảy ra trên đất nước ông trong thế hệ vừa qua như một âm mưu của người Mỹ nhằm hạ bệ và cô lập Nga. Chủ nghĩa chuyên chế và tính hiếu chiến của Putin đã được duy trì bởi sự ủng hộ thực sự từ người dân.

Những cú sốc của thập niên 1990 đã tạo điều kiện cho chủ nghĩa hoài nghi không bị kiềm chế giữa những người Nga, nó không chỉ bao gồm việc mất lòng tin sâu sắc vào chính đồng bào của họ, mà còn khiến người Nga luôn thấy các âm mưu chống lại họ ở mọi nơi, thường là các âm mưu trái với thực tế và rất phi lý. Hơn một nửa số người Nga hiện nay tin rằng Leonid Brezhnev là nhà lãnh đạo tốt nhất của họ trong thế kỷ 20, tiếp theo là Lenin và Stalin. Gorbachev nằm ở cuối danh sách đó.

Đối với những nước khác trên thế giới, sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh chắc chắn là một cái thở phào nhẹ nhõm. Trung Quốc thường được coi là người hưởng lợi lớn nhất từ Chiến tranh Lạnh. Tất nhiên điều này không hoàn toàn đúng. Suốt nhiều thập niên, đất nước này nằm dưới chế độ độc tài Marxist – Leninist vốn không phù hợp với nhu cầu của nó. Kết quả, trong thời kỳ Mao Trạch Đông, đã diễn ra một số tội ác khủng khiếp nhất của Chiến tranh Lạnh, trong đó hàng triệu người đã chết. Tuy nhiên, trong những năm 1970 và 1980, nước Trung Quốc của Đặng Tiểu Bình đã hưởng lợi rất lớn từ quan hệ liên minh trên thực tế với Mỹ, cả về an ninh và phát triển.

Trong thế giới đa cực đang dần thành hình, Mỹ và Trung Quốc đã nổi lên như những cường quốc mạnh nhất. Sự cạnh tranh của họ để giành ảnh hưởng tại châu Á sẽ xác định viễn cảnh thế giới. Trung Quốc, giống như Nga, đã hội nhập sâu vào hệ thống thế giới tư bản, và lãnh đạo hai nước này có lợi ích chung trong việc thúc đẩy sự hội nhập sâu hơn nữa.

Nga và Trung Quốc, khác với Liên Xô, nhiều khả năng sẽ không tìm kiếm sự cô lập hoặc đối đầu toàn cầu. Họ sẽ tìm cách làm giảm dần lợi ích của Mỹ và thống trị khu vực của họ. Tuy nhiên, cả Trung Quốc và Nga đều không sẵn sàng hoặc không thể đưa ra một thách thức về ý thức hệ toàn cầu, được hỗ trợ bởi sức mạnh quân sự. Cạnh tranh có thể dẫn đến xung đột, hoặc thậm chí là chiến tranh cục bộ, nhưng không phải là chiến tranh trên toàn hệ thống như Chiến tranh Lạnh.

Sự dễ dàng của nhiều người theo chủ nghĩa Marx trong việc thích nghi với nền kinh tế thị trường hậu Chiến tranh Lạnh đã đặt ra câu hỏi liệu đây có phải là một cuộc xung đột có thể tránh được ngay từ đầu hay không. Nhìn lại, kết quả này không đáng để phải hy sinh nhiều như thế – không phải ở Angola, không phải ở Việt Nam, không phải ở Nicaragua hay Nga. Nhưng liệu có thể tránh được cuộc chiến này vào những năm 1940, khi mà Chiến tranh Lạnh đi từ xung đột ý thức hệ sang đối đầu quân sự thường trực?

Trong khi các cuộc đụng độ và đối đầu hậu Thế chiến II chắc chắn là không thể tránh khỏi – chính sách của Stalin đã đủ để mang lại những thứ đó – thì vẫn thật khó để lập luận rằng một cuộc Chiến tranh Lạnh toàn cầu kéo dài gần 50 năm và đe doạ hủy diệt thế giới lại là điều không thể tránh được. Có những thời điểm dọc trên hành trình nơi các nhà lãnh đạo đã có thể kiềm chế, đặc biệt là về cạnh tranh quân sự và chạy đua vũ trang. Nhưng xung đột ý thức hệ nằm ở gốc rễ căng thẳng đã làm cho những suy nghĩ hợp lý như vậy rất khó đạt được.

Những người có thiện chí ở cả hai bên tin rằng họ đại diện cho một lý tưởng mà sự tồn tại của nó đang bị đe dọa. Điều đó khiến họ chấp nhận những rủi ro, vốn có thể tránh được, đối với cuộc sống của mình và cuộc sống của người khác.

Chiến tranh Lạnh ảnh hưởng đến tất cả mọi người trên thế giới vì mối đe dọa hủy diệt hạt nhân mà nó mang theo. Theo nghĩa này, không ai được an toàn trong Chiến tranh Lạnh. Chiến thắng lớn nhất của thế hệ Gorbachev là tránh được chiến tranh hạt nhân. Trên phương diện lịch sử, hầu hết những cuộc cạnh tranh giữa các cường quốc đều kết thúc bằng một thảm hoạ. Nhưng Chiến tranh Lạnh thì không. Dẫu đôi khi chúng ta đã đến rất gần với sự tàn phá hạt nhân dù rất ít người nhận ra điều này.

Tại sao các nhà lãnh đạo lại sẵn sàng chấp nhận rủi ro vô lý với vận mệnh của trái đất? Tại sao rất nhiều người tin vào những ý thức hệ mà họ, trong một lúc nào đó, có thể nhận ra rằng nó không chứa đựng tất cả các giải pháp họ đang tìm kiếm? Câu trả lời của tôi là thế giới Chiến tranh Lạnh, giống như thế giới ngày nay, đã mắc rất nhiều căn bệnh rõ ràng. Khi sự bất công và áp bức trở nên rõ ràng hơn trong thế kỷ 20 thông qua truyền thông đại chúng, mọi người – đặc biệt là những người trẻ tuổi – cảm thấy cần phải chữa trị những căn bệnh này. Các ý thức hệ Chiến tranh Lạnh đã đưa ra các giải pháp tức thời cho các vấn đề phức tạp.

Điều không thay đổi khi Chiến tranh Lạnh kết thúc là những xung đột giữa “người có” và “kẻ không” trong các vấn đề quốc tế. Ở một số nơi trên thế giới ngày nay, xung đột đã trở nên mãnh liệt hơn do sự bùng nổ của các phong trào tôn giáo và dân tộc, đe dọa phá hoại toàn bộ cộng đồng. Không bị giới hạn bởi những tư tưởng phổ quát toàn cầu thời Chiến tranh Lạnh, những thứ ít nhất giả vờ rằng tất cả mọi người có thể bước vào thiên đường mong ước của họ, những nhóm này chủ yếu là những kẻ bên lề hoặc phân biệt chủng tộc, trong khi những người ủng hộ họ đã bị thuyết phục rằng họ đã phải chịu những bất công lớn trong quá khứ, điều có thể biện minh cho những giận dữ hiện tại của họ.

Thường thì con người, đặc biệt là những người trẻ tuổi, cần phải là một phần của một thế giới lớn hơn bên ngoài bản thân hoặc thậm chí gia đình của họ, một lý tưởng to lớn nào đó để họ cống hiến cả đời mình. Chiến tranh Lạnh cho thấy những gì có thể xảy ra khi những lý tưởng như thế bị bóp méo để phục vụ quyền lực, ảnh hưởng và sự kiểm soát.

Điều đó không có nghĩa là những nhu cầu mang tính con người này là vô giá trị. Nhưng đó là một cảnh báo rằng chúng ta nên xem xét kỹ lưỡng những rủi ro mà chúng ta sẵn sàng chấp nhận để đạt được ý tưởng của mình, để không lặp lại cái giá khủng khiếp mà thế kỷ 20 phải trả trong hành trình tìm kiếm sự hoàn hảo của nó.
Odd Arne Westad là Giáo sư chuyên về quan hệ Hoa Kỳ – Châu Á tại Trường Quản trị John F. Kennedy thuộc Đại học Harvard. Ông là tác giả của nhiều đầu sách, mà gần đây nhất là “The Cold War: A World History” – tác phẩm mà từ đó bài luận này được rút ra.