Nhà văn nữ người Pháp, Maryse Condé, ngày 12/10/2018, được Tân Hàn Lâm Viện Thụy Điển trao tặng một giải thưởng Văn Học mới. © DR |
Ban giám khảo Tân Hàn Lâm Viện Thụy Điển ngày 12/10/2018 trao tặng một giải
thưởng Văn Học mới cho nhà văn nữ người Pháp, Maryse Condé. Giải thưởng này có
tham vọng thay thế Nobel Văn Học, vào lúc ban giám khảo Ủy ban Văn Chương của
Viện Hàn Lâm Stockholm bị tai tiếng bê bối tình dục.
Cùng được đề cử tranh giải thưởng Văn Học mới của Thụy Điển năm nay, có nhà
văn nữ gốc Việt, Kim Thúy, hiện sinh sống tại Canada và cây bút người Anh, Neil
Gaiman.
Tân Hàn Lâm Viện Thụy Điển bao gồm nhiều nhân sĩ, trí thức công bố bảng
vàng vào trưa nay tại Thư Viện Stockholm, vinh danh nhà văn Pháp, với "một
ngôn ngữ chính xác, mô tả về những tác động tàn phá của chính sách đô hộ và
những hỗn loạn khi thời kỳ thuộc địa chấm dứt".
Maryse Condé sinh năm 1937 tại Guadeloupe, vùng lãnh thổ hải ngoại của
Pháp. Những tác phẩm của bà như Segou, Moi, Tituba bà phù thủy Đen tại
Salem, hay Khi đợi mùa nước lớn ... đã được dịch sang nhiều thứ
tiếng. Maryse Condé đã nhận nhiều giải thưởng lớn của văn đàn Pháp như giải
thưởng của Viện Hàn Lâm Pháp, giải thưởng mang tên nữ sĩ Marguerite Yourcenar.
Vài nét về tác phẩm RU của Kim Thúy
RU của Kim Thúy
viết về một gia đình người Việt hải ngoại. Là những hồi tưởng, những ký ức và
hiện thực chồng chất lên nhau. Về cuộc đời và gia đình ở Việt Nam, trước khi
vượt biển, đến cuộc sống nơi xứ người ở Canada, rồi trở lại với một Việt Nam
hiện tại.
Đời sống người Việt
hải ngoại, buồn vui hội nhập và sau này thường có giai đoạn trở về nơi cội
nguồn là đề tài đã được một số nhà văn gốc Việt ở hải ngoại viết lên. Có thể kể
đến The Gangster We Are All Looking For của le thi diem
thuy, We Should Never Met của Aimee Phan và Quiet As
They Come của Angie Châu.
Riêng ở Canada, Kim Thúy có lẽ là nhà văn gốc Việt thứ hai với tác phẩm viết về Việt Nam thời hậu chiến, sau Nguyễn Ngọc Ngạn với The Will of Heaven xuất bản 30 năm trước đây.
RU chứa đựng hình ảnh ảm đạm quen thuộc ở miền Nam sau khi chính quyền Sài Gòn sụp đổ vào tháng 4-1975. Nhà của tác giả bỗng dưng có cả chục bộ đội vào ở. Những người miền bắc không quen nếp sống miền Nam nên đã nuôi cá trong bồn cầu tiêu. Một hôm cá biến mất làm họ nghi ngờ gia đình tác giả. Trở thành nạn nhân của chiến dịch đánh tư sản mại bản, gia đình Kim Thúy vượt biển và đến được trại tị nạn ở Malaysia.
RU nguyên bản tiếng Pháp được nhà xuất bản Libre Expression cho in năm 2009. Bản tiếng Anh, do Sheila Fischman dịch và Random House Canada phát hành năm 2012. Sách không dày, chỉ 141 trang, là tác phẩm đầu tay của tác giả và đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ như Anh, Ý, Tây Ban Nha, Ba Lan và cũng đã nhận được một số giải thưởng văn chương.
Tựa của tác phẩm, RU trong tiếng Pháp có nghĩa một con suối nhỏ và một cách ẩn dụ là “những giòng chảy của nước mắt, máu và tiền”, theo tác giả giải thích ở đầu sách.
Gia đình Kim Thúy vượt biển. Sau bốn tháng ở trại tị nạn, được đi Canada và định cư ở Montréal, ở đó nhận được những giúp đỡ của người bản xứ thân thương, không phân biệt giai cấp. Bố đã đi lau chùi nhà cửa, mẹ đi may gia công để nuôi các con ăn học. Tác giả cũng từng đi may, làm thông dịch viên, làm luật sư, mở nhà hàng trước khi viết văn.
Lối viết của Kim Thúy hay liên tưởng đến những sự việc và hình ảnh rồi nhảy từ hoàn cảnh này sang hoàn cảnh khác nên có lúc người đọc không nắm bắt được không gian, thời gian và tương quan nhân vật. Từ năm người con của bác sĩ Vinh được một linh mục ở Canada nuôi cho khôn lớn trong khi ông bị tù ở Việt Nam, tác giả nhắc đến người con trai Henri của mình có bệnh tự kỷ nên không nghe lời, không hiểu và tác giả cảm thấy như đã bị “đánh bại, bị lột trần, bị đánh tả tơi.”
Nội tâm của tác giả cũng là những xung đột của nhiều người trong gia đình. Những điều đã không thể nói ra và nay được kể lại. Từ hành vi dâm đãng của đứa con hư thân, bụi đời của dì kế Hai, đến chuyện dượng Hai, anh của mẹ tác giả, là một dân biểu đối lập có tiếng ở miền Nam, nhưng ông có vợ bé, có bồ nhí. Theo chi tiết mô tả, đó là hình ảnh của Dân biểu Nguyễn Hữu Chung, đã quá cố, thuộc thành phần thứ ba trong chính trường miền Nam được nhiều người cảm phục.
Những điều viết ra cho thấy tác giả có ảnh hưởng bởi những nhân vật ủng hộ Mặt trận Giải phóng miền Nam. Trong các tác phẩm liên quan đến người Việt, bom đạn chiến tranh luôn ẩn hiện. Tác giả sinh ra trong những ngày Tết Mậu Thân với pháo nổ hoà trong tiếng súng. Những mô đất có gài mìn trên đường từ Sài Gòn lên Đà Lạt. Một em bé mới 6 tuổi cầm thư đi liên lạc bị những người lính “nhai kẹo cao-su” bắn chết trên ruộng lúa. Ở chỗ khác, tác giả đã nhắc đến cụm từ “bàn tay lông lá” với ý chỉ sự can dự của người Mỹ vào Việt Nam.
Chiến tranh ở Việt Nam là những giằng co trong tư tưởng. Thời chiến tranh khốc liệt tác giả lại như được sống trong hoà bình, vì gia đình có chức vị nơi thành phố. Nhưng khi hoà bình đến tác giả như đang sống với chiến tranh. Đó là những nghịch cảnh và xung đột được dàn trải khi viết về thực tế sau ngày chiến tranh chấm dứt, là một thời điểm đen tối của Việt Nam qua nhiều nét sinh hoạt đời sống. Một cách thoang thoáng, nhiều vấn đề hậu chiến được nhắc đến trong tác phẩm, từ trại học tập cải tạo, thăm nuôi đến chính sách kinh tế ngăn sông cấm chợ qua hình ảnh một đám ma giả để đưa heo đi bán.
Còn có những ẩn dụ. Khi cờ Mặt Trận nền xanh đỏ bị biến thành toàn đỏ, tác giả coi như mất đi bầu trời, như cô thiếu nữ mất quyền đánh phấn xanh trên đôi mắt. Trong nhà ảnh Hồ Chí Minh phải được treo cao hơn cả ảnh tổ tiên. Áo dài nữ sinh không còn tung bay sân trường. Học đường trở thành nơi đào tạo anh hùng giết giặc qua những bài toán dạy đếm với con số máy bay bị bắn rớt, số lính bị giết, cán bộ bị tù. Tác giả đã một thời hãnh diện đeo khăn quàng đỏ nhưng chẳng bao giờ được làm “Cháu ngoan Bác Hồ” vì lý lịch và dù có là học sinh giỏi nhất lớp cũng không được làm “thiếu nhi đáng yêu của Đảng”. Cũng chuyện lá cờ, tác giả ghi lại sự kiện chồng của cô, một người da trắng, mặc áo thun với hình cờ đỏ sao vàng đi trên phố ở Montréal đã bị một người Việt quấy nhiễu khiến bố tác giả phải yêu cầu con rể thay áo.
RU với nét khác biệt văn hoá Việt và Canada, của tà áo dài, cách người Việt biểu lộ tình thương trong gia đình hay khen trẻ em, cách đặt tên cho con là ước vọng của cha mẹ. Nhưng trong tình yêu, giữa đông và tây là những tương đồng khi Kim Thúy viết về bản thân với những người tình, yêu thế nào cho vừa, bao nhiêu cho đủ. Như dượng Hai trong gia đình có nhiều bồ.
Khi có cơ hội trở về Việt Nam làm việc, nhìn bờ tường xưa, căn nhà cũ nay bị ngăn chia ra nhiều phòng làm tác giả bùi ngùi. Chuyện đòi lại nhà loé lên trong tâm tưởng.
Những hàng quán, người bán hàng rong gợi nhớ quãng đời niên thiếu, đặc biệt là những món ăn buổi sớm mà đời sống ở Canada không có khiến tác giả bỏ hẳn ăn sáng nơi xứ người. Ở quê cũ tác giả lại nhớ Canada, nhớ mùi thơm của giấy Bounce khi sấy quần áo, nhớ mước hoa Paris chồng tặng.
Thấy một bé gái bán bánh mì bên đường, tác giả muốn giúp cho em có cơ hội học hành để làm việc văn phòng nhưng em từ chối. Ở quê nhà, Kim Thúy được nghe người thân kể chuyện phải đi bán dâm, dù tuổi mới lên mười, được gặp những cô gái điếm trong các quán, tác giả liên tưởng đến hình xâm trên thân thể của những cô gái Canada như là những lựa chọn của chính họ, còn với những thiếu nữ Việt dù trên thân thể không có vết xâm nhưng trong tâm hồn là những vết thương sâu kín. Với Kim Thúy, đôi vai phụ nữ Việt chịu những gánh nặng của lịch sử, thời chiến tranh với những cái chết của cha, của chồng. Thời nay là những tủi nhục xã hội.
Làm việc ở Việt Nam nhiều năm, Kim Thúy có một thần tượng. Đó là Sao Mai con của dượng Hai, tức dân biểu đối lập Nguyễn Hữu Chung. Về sống ở Việt Nam đã nhiều năm, Sao Mai lúc đầu mở một tiệm bán cà-phê, bánh ngọt và được nhiều quan chức cộng sản thích ăn các thứ bánh, kem do cô tự tay làm ra. Kinh doanh phất lên, nay Sao Mai là một thương nhân thành công và nổi tiếng.
Sau ba mươi năm, sự thành công của Sao Mai được tác giả so sánh như phượng hoàng tái sinh từ tro tàn, như Việt Nam sau thời đại màn sắt và như bố mẹ đã vươn lên từ những ngày đi lau bồn cầu tiêu.
Và một ngày nào đó, quê hương sẽ là những lời ru êm đềm. Một ước mơ đẹp của tác giả. Cho thế hệ tương lai.
Bùi Văn Phú hiện dạy học đại học cộng đồng và là một nhà báo tự do sống ở vùng Vịnh San Francisco. © 2012
Riêng ở Canada, Kim Thúy có lẽ là nhà văn gốc Việt thứ hai với tác phẩm viết về Việt Nam thời hậu chiến, sau Nguyễn Ngọc Ngạn với The Will of Heaven xuất bản 30 năm trước đây.
RU chứa đựng hình ảnh ảm đạm quen thuộc ở miền Nam sau khi chính quyền Sài Gòn sụp đổ vào tháng 4-1975. Nhà của tác giả bỗng dưng có cả chục bộ đội vào ở. Những người miền bắc không quen nếp sống miền Nam nên đã nuôi cá trong bồn cầu tiêu. Một hôm cá biến mất làm họ nghi ngờ gia đình tác giả. Trở thành nạn nhân của chiến dịch đánh tư sản mại bản, gia đình Kim Thúy vượt biển và đến được trại tị nạn ở Malaysia.
RU nguyên bản tiếng Pháp được nhà xuất bản Libre Expression cho in năm 2009. Bản tiếng Anh, do Sheila Fischman dịch và Random House Canada phát hành năm 2012. Sách không dày, chỉ 141 trang, là tác phẩm đầu tay của tác giả và đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ như Anh, Ý, Tây Ban Nha, Ba Lan và cũng đã nhận được một số giải thưởng văn chương.
Tựa của tác phẩm, RU trong tiếng Pháp có nghĩa một con suối nhỏ và một cách ẩn dụ là “những giòng chảy của nước mắt, máu và tiền”, theo tác giả giải thích ở đầu sách.
Gia đình Kim Thúy vượt biển. Sau bốn tháng ở trại tị nạn, được đi Canada và định cư ở Montréal, ở đó nhận được những giúp đỡ của người bản xứ thân thương, không phân biệt giai cấp. Bố đã đi lau chùi nhà cửa, mẹ đi may gia công để nuôi các con ăn học. Tác giả cũng từng đi may, làm thông dịch viên, làm luật sư, mở nhà hàng trước khi viết văn.
Lối viết của Kim Thúy hay liên tưởng đến những sự việc và hình ảnh rồi nhảy từ hoàn cảnh này sang hoàn cảnh khác nên có lúc người đọc không nắm bắt được không gian, thời gian và tương quan nhân vật. Từ năm người con của bác sĩ Vinh được một linh mục ở Canada nuôi cho khôn lớn trong khi ông bị tù ở Việt Nam, tác giả nhắc đến người con trai Henri của mình có bệnh tự kỷ nên không nghe lời, không hiểu và tác giả cảm thấy như đã bị “đánh bại, bị lột trần, bị đánh tả tơi.”
Nội tâm của tác giả cũng là những xung đột của nhiều người trong gia đình. Những điều đã không thể nói ra và nay được kể lại. Từ hành vi dâm đãng của đứa con hư thân, bụi đời của dì kế Hai, đến chuyện dượng Hai, anh của mẹ tác giả, là một dân biểu đối lập có tiếng ở miền Nam, nhưng ông có vợ bé, có bồ nhí. Theo chi tiết mô tả, đó là hình ảnh của Dân biểu Nguyễn Hữu Chung, đã quá cố, thuộc thành phần thứ ba trong chính trường miền Nam được nhiều người cảm phục.
Những điều viết ra cho thấy tác giả có ảnh hưởng bởi những nhân vật ủng hộ Mặt trận Giải phóng miền Nam. Trong các tác phẩm liên quan đến người Việt, bom đạn chiến tranh luôn ẩn hiện. Tác giả sinh ra trong những ngày Tết Mậu Thân với pháo nổ hoà trong tiếng súng. Những mô đất có gài mìn trên đường từ Sài Gòn lên Đà Lạt. Một em bé mới 6 tuổi cầm thư đi liên lạc bị những người lính “nhai kẹo cao-su” bắn chết trên ruộng lúa. Ở chỗ khác, tác giả đã nhắc đến cụm từ “bàn tay lông lá” với ý chỉ sự can dự của người Mỹ vào Việt Nam.
Chiến tranh ở Việt Nam là những giằng co trong tư tưởng. Thời chiến tranh khốc liệt tác giả lại như được sống trong hoà bình, vì gia đình có chức vị nơi thành phố. Nhưng khi hoà bình đến tác giả như đang sống với chiến tranh. Đó là những nghịch cảnh và xung đột được dàn trải khi viết về thực tế sau ngày chiến tranh chấm dứt, là một thời điểm đen tối của Việt Nam qua nhiều nét sinh hoạt đời sống. Một cách thoang thoáng, nhiều vấn đề hậu chiến được nhắc đến trong tác phẩm, từ trại học tập cải tạo, thăm nuôi đến chính sách kinh tế ngăn sông cấm chợ qua hình ảnh một đám ma giả để đưa heo đi bán.
Còn có những ẩn dụ. Khi cờ Mặt Trận nền xanh đỏ bị biến thành toàn đỏ, tác giả coi như mất đi bầu trời, như cô thiếu nữ mất quyền đánh phấn xanh trên đôi mắt. Trong nhà ảnh Hồ Chí Minh phải được treo cao hơn cả ảnh tổ tiên. Áo dài nữ sinh không còn tung bay sân trường. Học đường trở thành nơi đào tạo anh hùng giết giặc qua những bài toán dạy đếm với con số máy bay bị bắn rớt, số lính bị giết, cán bộ bị tù. Tác giả đã một thời hãnh diện đeo khăn quàng đỏ nhưng chẳng bao giờ được làm “Cháu ngoan Bác Hồ” vì lý lịch và dù có là học sinh giỏi nhất lớp cũng không được làm “thiếu nhi đáng yêu của Đảng”. Cũng chuyện lá cờ, tác giả ghi lại sự kiện chồng của cô, một người da trắng, mặc áo thun với hình cờ đỏ sao vàng đi trên phố ở Montréal đã bị một người Việt quấy nhiễu khiến bố tác giả phải yêu cầu con rể thay áo.
RU với nét khác biệt văn hoá Việt và Canada, của tà áo dài, cách người Việt biểu lộ tình thương trong gia đình hay khen trẻ em, cách đặt tên cho con là ước vọng của cha mẹ. Nhưng trong tình yêu, giữa đông và tây là những tương đồng khi Kim Thúy viết về bản thân với những người tình, yêu thế nào cho vừa, bao nhiêu cho đủ. Như dượng Hai trong gia đình có nhiều bồ.
Khi có cơ hội trở về Việt Nam làm việc, nhìn bờ tường xưa, căn nhà cũ nay bị ngăn chia ra nhiều phòng làm tác giả bùi ngùi. Chuyện đòi lại nhà loé lên trong tâm tưởng.
Những hàng quán, người bán hàng rong gợi nhớ quãng đời niên thiếu, đặc biệt là những món ăn buổi sớm mà đời sống ở Canada không có khiến tác giả bỏ hẳn ăn sáng nơi xứ người. Ở quê cũ tác giả lại nhớ Canada, nhớ mùi thơm của giấy Bounce khi sấy quần áo, nhớ mước hoa Paris chồng tặng.
Thấy một bé gái bán bánh mì bên đường, tác giả muốn giúp cho em có cơ hội học hành để làm việc văn phòng nhưng em từ chối. Ở quê nhà, Kim Thúy được nghe người thân kể chuyện phải đi bán dâm, dù tuổi mới lên mười, được gặp những cô gái điếm trong các quán, tác giả liên tưởng đến hình xâm trên thân thể của những cô gái Canada như là những lựa chọn của chính họ, còn với những thiếu nữ Việt dù trên thân thể không có vết xâm nhưng trong tâm hồn là những vết thương sâu kín. Với Kim Thúy, đôi vai phụ nữ Việt chịu những gánh nặng của lịch sử, thời chiến tranh với những cái chết của cha, của chồng. Thời nay là những tủi nhục xã hội.
Làm việc ở Việt Nam nhiều năm, Kim Thúy có một thần tượng. Đó là Sao Mai con của dượng Hai, tức dân biểu đối lập Nguyễn Hữu Chung. Về sống ở Việt Nam đã nhiều năm, Sao Mai lúc đầu mở một tiệm bán cà-phê, bánh ngọt và được nhiều quan chức cộng sản thích ăn các thứ bánh, kem do cô tự tay làm ra. Kinh doanh phất lên, nay Sao Mai là một thương nhân thành công và nổi tiếng.
Sau ba mươi năm, sự thành công của Sao Mai được tác giả so sánh như phượng hoàng tái sinh từ tro tàn, như Việt Nam sau thời đại màn sắt và như bố mẹ đã vươn lên từ những ngày đi lau bồn cầu tiêu.
Và một ngày nào đó, quê hương sẽ là những lời ru êm đềm. Một ước mơ đẹp của tác giả. Cho thế hệ tương lai.
Bùi Văn Phú hiện dạy học đại học cộng đồng và là một nhà báo tự do sống ở vùng Vịnh San Francisco. © 2012