Trần
Doãn Nho, đăng trên Da Mầu
1.
30/4/1975, Việt Nam Cộng Hòa (VNCH)[1] tức
tưởi chết!
Đọc được từ một email tình cờ lạc vào inbox tôi:
“Còn nhớ trưa ngày 30/4/1975 dưới bầu trời u ám
như muốn đổ lệ, tôi đứng ngay cổng xe lửa số 6 trên đường Trương Minh Giảng –
Phú Nhuận. Lúc đó lính Cộng Hòa đã trút bỏ quần áo đi bộ từng đoàn thất thểu.
Súng ống, ba-lô, quân phục họ vất đầy lề đường. Xe tăng và các binh đoàn
Motolova của Cộng Sản đã tràn vào thủ đô Sài Gòn, chạy rầm rầm hướng về Bộ Tổng
Tham Mưu. Chung quanh ai cũng hốt hoảng lo tìm đường chạy về nhà, giờ này đi di
tản kể như đã quá trễ. Lâu lâu lại thấy một vài đứa khốn nạn Cách Mạng 30/4 đeo
băng đỏ ngồi trên xe Jeep cầm súng chĩa lên trời, chúng bắn từng tràng đạn chào
mừng ngày Giải Phóng. (…)
Sau ngày 30/4 vào khoảng tháng 5 khi có chiến dịch
Bài Trừ Văn Hóa Đồi Trụy Mỹ Ngụy, có một vụ chấn động Sài Gòn là vụ nổ ở một
tiệm cho mướn sách cũ. Chủ tiệm lùa hết bọn đeo băng đỏ vào trong rồi mở kíp
lựu đạn tự sát cho dính chùm. Nghe đâu chết vài mống Cách Mạng 30/4, ông chủ
cũng chết. Tiệm này nằm trong phường 10, quận Phú Nhuận (chung với phường của
nhà mình bên đường Thiệu Trị – Nguyễn Huỳnh Đức). Còn một vụ khác vào khoảng
năm 1976, có một gia đình bên khu đường rầy xe lửa hướng đi ra Cống Bà Xếp. Gia
đình này có hai vợ chồng và tám đứa con. Vì căm phẫn chế độ Cộng Sản, họ đã tìm
ra đường thoát. Hôm đó, họ nấu một nồi cháo vịt, bỏ thuốc giết chuột vô, cả nhà
cùng ăn chung bữa cuối cùng rồi nắm tay nhau chết hết.[2]
Đọc được từ một nữ bộ đội miền Bắc, sau này là nhà văn nổi tiếng
Dương Thu Hương: “Lần thứ nhất khi đội quân chiến thắng vào Sài
Gòn năm 1975, trong khi tất cà mọi người trong đội quân chúng tôi đều hớn hở
cười thì tôi lại khóc. Vì tôi thấy tuổi xuân của tôi đã hy sinh một cách uổng
phí. Tôi không choáng ngợp vì nhà cao cửa rộng của miền Nam, mà vì tác phẩm của
tất cả các nhà văn miền Nam đều được xuất bản trong một chế độ tự do; tất cả
các tác giả mà tôi chưa bao giờ biết đều có tác phẩm bầy trong các hiệu sách,
ngay trên vỉa hè; và đầy rẫy các phương tiện thông tin như TV, radio, cassette.
Những phương tiện đó đối với người miền Bắc là những giấc mơ.”[3]
2.
Chao
ôi, đã bốn mươi lăm năm rồi kể từ cái ngày tang thương 30/4/1975!
Trong những ngày này, khi tất cả chúng ta ngậm ngùi nhớ lại thời
điểm bi thảm đó, thì trên diễn đàn Liên Hiệp Quốc, chính quyền Cộng Sản Việt
Nam đang cố gắng vô hiệu hóa công hàm nhượng bộ Trung Quốc của thủ tướng Phạm
Văn Đồng năm 1958 bằng cách khẳng định tính cách hợp pháp của chế độ VNCH trong
cuộc đấu tranh pháp lý giành lại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa qua hai
Công Hàm 257-HC năm 2016[4] và A/72/692 năm 2018 do họ gửi cho Liên Hiệp Quốc.[5] Xin
dẫn một trích đoạn liên hệ:“Từ khi quân đội Pháp rút khỏi
Việt Nam năm 1956, chính quyền VNCH đã tiếp quản quần đảo Trường Sa từ Pháp.
Bằng Sắc Lệnh Số 143-NV đề ngày 22 tháng 10 năm 1956, Chính Phủ nước Việt Nam
Cộng Hoà đã chuyển quần đảo Trường Sa từ tỉnh Bà Rịa về tỉnh Phước Tuy. Trong
khoảng thời gian giữa 1954 và 1975, Việt Nam tạm thời bị chia thành hai phần.
Do vị trí địa lý, vào thời gian này, các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được
đặt dưới quyền cai trị của chính phủ VNCH (Miền Nam Việt Nam). Như thế, sự kiện
chính phủ VNCH hành xử việc cai trị lãnh thổ hai Quần Đảo trong thời điểm đó là
phù hợp với thực tế và luật pháp trong bối cảnh của giai đoạn này. Thông lệ
quốc tế chỉ rõ rằng trong thời Chiến Tranh Lạnh, có sự hiện diện của hai quốc
gia giống Việt Nam như Đức, Yemen…(…) Vào năm 1975, sau khi Trung Quốc sử dụng
vũ lực để chiếm cứ quần đảo Hoàng Sa (vào tháng 1 năm 1974), Chính Phủ VNCH đã
công bố một Bạch Thư đưa ra những bằng chứng lịch sử xác định một cách rõ ràng
và đầy thuyết phục chủ quyền lâu dài của Việt Nam trên hai quần đảo này.”[6]
Trong
lúc nguy cấp, rốt cuộc, nhà cầm quyền Cộng Sản buộc phải bỏ cái thói kiêu ngạo
cổ hữu, chính thức thừa nhận sự hiện hữu hợp pháp của VNCH như một cái phao cứu
sinh.
Thực tế
là, VNCH đã từng là một quốc gia có cương thổ, có quân đội, có chủ quyền pháp
lý, được 87 quốc gia trên thế giới công nhận và đã là thành viên của nhiều Uỷ
Ban trong Liên Hiệp Quốc, trong lúc vào thời điểm đó, chính quyền Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa của miền Bắc chỉ được một số rất ít các quốc gia trong khối Cộng
Sản thừa nhận. Khi nói đến VNCH, thường thì người ta chỉ nghĩ đến các chính
quyền: chính quyền Ngô Đình Diệm, chính quyền Nguyễn Khánh, chính quyền Nguyễn
Cao Kỳ, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu… Và khi nghĩ đến các chính quyền, người ta
chỉ nhìn thấy một VNCH đầy những hình ảnh tiêu cực: tham nhũng thối nát, thay
ngôi đổi chủ xoành xoạch, lệ thuộc ngoại bang…và dựa vào đó, quy cho VNCH là
phồn vinh giả tạo, là đầy dẫy các tệ nạn xã hội, là bất công, áp bức, vân vân
và vân vân. Thực ra, cũng như những quốc gia khác, VNCH là một tổng thế, có cái
tiêu cực, nhưng không thiếu những điều tích cực. Và những điều tích cực đó là
hình ảnh của một VNCH khác, đẹp đẽ, nhân bản, dân tộc, thường bị che giấu bởi
thiên kiến hay bị xuyên tạc một cách bất công.
Với
riêng tôi (mà cũng là cả thế hệ chúng tôi) sinh trưởng trong lòng chế độ VNCH,
nơi chúng tôi được trưởng thành như những con người tự do, được học hành, được
mơ ước, được tranh đấu chống bất công, áp bức, nói tóm lại, được tự hào là
người Việt Nam, thì VNCH không chỉ là một một quốc gia, một dân tộc mà hơn thế
nữa, đó là một quá khứ thân thuộc, êm đềm, sinh động, đa dạng và phong phú.
VNCH tuy không còn nữa, nhưng với chúng tôi, VNCH không hề biến mất.
3.
Người
bạn học thời trẻ của tôi, Lê Hiếu Đằng, một cán bộ Cộng Sản hoạt động nằm vùng,
trong “Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh…”, kể lại:
“Nhắc đến đây tôi có một kỷ niệm khó quên: ba
tôi và mẹ Lý Thiện Sanh nóng lòng vì đã đến kì thi Tú tài II nhưng chúng tôi
vẫn bị nhốt trong tù. Vì vậy ông bà làm đơn hú họa xin hai chúng tôi ra thi.
Thế mà chính quyền Thừa Thiên-Huế lúc đó lại giải quyết cho ra thi. Tôi theo
ban C Triết học nên chỉ còn vài ngày nữa là thi, ba tôi gửi một số sách vào cho
tôi. May mắn lúc đó tôi đã đọc nhiều sách triết học của các Giáo sư Nguyễn Văn
Trung, Trần Văn Toàn và các tạp chí Sáng tạo, Hiện đại của nhà văn Thanh Tâm
Tuyền, Mai Thảo, nhà thơ Nguyên Sa, Tô Thuỳ Yên, v.v., kể cả quyển sách viết về
Nietzsche của Nguyễn Đình Thi trước năm 1975. Gặp đề thi triết khá hay tôi tán
đủ điều, đậu hạng thứ dễ dàng. Còn Lý Thiện Sanh học ban B vốn rất giỏi nên đậu
hạng bình thứ. (…) Tôi không biết với chế độ gọi là “ưu việt” hiện nay có người
tù nào đã được cho ra đi thi như chúng tôi hay không?”[7]
Những
chi tiết Lê Hiếu Đằng trình bày ở trên là hoàn toàn chính xác, theo tôi. Lê
Hiếu Đằng học Đệ Nhất C, Lý Thiện Sanh và tôi Đệ Nhất B, dù không ngồi cùng
lớp, nhưng thường hay đi cà phê cà pháo, bàn luận chuyện văn chương thế sự với
nhau. Các bạn nào đã từng học Quốc Học vào thời điểm đó (1964) đều ít nhiều
biết rõ vụ Lê Hiếu Đằng và Lý Thiện Sanh bị bắt giam vì bị nghi là hoạt động
cho Cộng Sản, nhưng được chính quyền địa phương cho mang sách vở vào lao Thừa
Phủ học thi, được ra đi thi như những học sinh bình thường khác và rồi đậu tú
tài II. Được phóng thích sau gần nửa năm bị cầm tù, Lê Hiếu Đằng tiếp tục tham
gia hoạt động cho Cộng Sản ở các trường đại học Sài Gòn, còn Lý Thiện Sanh theo
học Y Khoa, tốt nghiệp bác sĩ, làm việc tại bệnh viện Nguyễn Văn Học, Gia Định.
Thành thật mà nói, trong nhiều bài viết có tính cách phản tỉnh một cách triệt
để vào lúc cuối đời của Đằng, thì những giòng này khiến tôi cảm động, vì anh
nêu ra một chi tiết rất nhỏ nhưng lại nói được một điều khá lớn và đầy ý nghĩa.
Những cái “ưu việt” của Cộng Sản mà Đằng đã từng vì chúng mà theo suốt cuộc
đời, hóa ra không thể so sánh được với cái “nghĩa cử” đầy tình người của chính
quyền Thừa Thiên-Huế hồi đó. Nghĩa cử này chắc chắn không xuất phát từ lòng xót
thương của một cá nhân, hay từ lỗ hổng của luật pháp mà từ cái cơ chế bình
thường của nó, của VNCH. Biết đâu chính cái chi tiết nho nhỏ này đã ám ảnh Đằng
và là động lực khiến anh chọn lựa ra khỏi đảng Cộng Sản vào lúc cuối đời!
Nhân chi tiết khá lý thú đó, tôi thấy cần phải giới thiệu lại
một bài viết, đúng hơn là một phần trong tập hồi ký của một trong những khuôn
mặt trí thức tả khuynh nổi tiếng hàng đầu ở miền Nam trước năm 1975, giáo sư
Nguyễn Văn Trung: “Tưởng niệm Việt Nam Cộng Hòa” (In memoriam Việt Nam Cộng
Hòa); hồi ký này được viết từ năm 1993 và được công
bố lần đầu tiên trong tạp chí Văn Học (Cali) năm 2000.[8] Giới
thiệu phần hồi ký đặc biệt này, tạp chí Văn Học viết, “Chúng tôi xem bài viết của giáo sư Trung là một biểu hiện của sự
liêm khiết và can đảm của người trí thức, vì cho đến nay, trên toàn cầu, giới
trí thức khuynh tả vẫn chưa có can đảm “tự phán” một cách sòng phẳng, rốt ráo.
Họ không dám nhận rằng chỗ đứng an toàn của họ không đâu khác hơn là xã hội cho
phép họ được công khai bày tỏ lập trường khuynh tả, và khi chế độ bị họ khinh
miệt tiêu vong, để thay thế bằng một chế độ toàn trị, thì số phận của họ cũng
bị tiêu vong theo. Hay nói như Giáo sư Nguyễn Văn Trung, “tham gia cách mạng là
tham gia vào một quá trình tự tiêu diệt sau này.” (Thư tòa soạn)
Qua hồi ký, Nguyễn Văn Trung đã phác họa lại hình ảnh chân xác
của VNCH bằng cách hướng cái nhìn vào một số nét cụ thể khá đa dạng và phong
phú không lệ thuộc vào các chính phủ, thường bị bỏ quên hay bị che mờ bởi thiên
kiến hay bởi một nhãn quan lệch lạc, thậm chí có tính cách thù nghịch. Một
trong những nền tảng của VNCH là cơ chế công chức. Theo ông, “Khi người Pháp ra đi, một trong những điều tích cực của họ để lại
là một số thể chế nhà nước, cụ thể là một nền hành chánh và một giới công chức
được đào tạo theo tinh thần phân biệt tôn giáo và nhà nước.”[9] Trong
vòng 20 năm (1955-1975), dù có nhiều thay đổi trong chính phủ, cái hệ thống
hành chánh, guồng máy đó vẫn như thế, vẫn chạy đều như không có gì xảy ra. Công
chức cấp dưới có trình độ văn hóa tương đối, còn công chức cao cấp tối thiểu
cũng có bằng tú tài hay tốt nghiệp đại học. Và dù ở cấp nào, giới công chức vẫn
giữ phong cách của những người làm việc công: mực thước, tôn trọng của công,
tôn trọng luật pháp và phục vụ công chúng.
Một đặc điểm khác của VNCH là “xã hội dân sự”. “Những “chính quyền” hay [những] thay đổi ở miền Nam cần phân biệt
với “chế độ xã hội” miền Nam ít nhiều vẫn duy trì và phát huy những sinh hoạt
của điều mà ta gọi là xã hội dân sự (société civile).”(…) “Nếu phân biệt “xã
hội công” (le social public) với “xã hội tư”(le social privé) thì “xã hội dân
sự” là một loại hình xã hội trong đó nhà nước không can thiệp vào xã hội tư về
các quan hệ nghề nghiệp, giáo dục, tư tưởng, văn hóa, cứu tế, liên đới xã hội
và các quan hệ về mặt tình cảm (gia đình, họ hàng, bè bạn, thầy trò…).
Xã hội dân sự miền Nam, do đó, là một xã hội đa dạng với vô số tổ chức, hội
đoàn tư nhân lớn, nhỏ hoạt động độc lập và hợp pháp, được chính quyền tôn trọng
và giúp đỡ từ tôn giáo, nghề nghiệp, cho đến kinh doanh, văn nghệ, vân vân. Lợi
dụng điều này, người Cộng Sản đã đứng ra thành lập nhiều hội đoàn, tổ chức hợp
pháp để ngụy trang cho các hoạt động của mình. Có thể đây chính là lý do khiến
nhà cầm quyền Cộng Sản hiện nay rất sợ hình thức “xã hội dân sự”.
Đề cập đến pháp lý và đạo lý, Nguyễn Văn Trung viết, “Một trường hợp cũng khá phổ biến trước đây ở miền Nam: Trong cái
thế đối lập giữa hai trật tự: trật tự pháp lý chính trị và trật tự đạo lý tình
người, có những lựa chọn trật tự cao hơn (đạo lý tình người), chẳng hạn anh em,
con cháu, bạn bè theo Việt Cộng trà trộn trong cơ quan, trong dân chúng, biết
mà không tố cáo, thậm chí còn cho tá túc trong nhà vì coi tình nghĩa ruột thịt,
bạn bè cao hơn quyền lợi chính trị, pháp luật…”. Mặt khác, một người
có người thân hay họ hàng đi theo Cộng Sản, con cái họ chẳng gặp khó khăn gì
trong việc học hành, thi cử và những quyền lợi hợp pháp khác và khi lớn lên,
nếu không trực tiếp tham gia hoạt động cho Cộng Sản thì vẫn được đi làm việc
bình thường, không bị phân biệt đối xử. Có người còn được cấp học bổng đi du
học nước ngoài, và về sau lại hoạt động chống đối kịch liệt VNCH. Chính vì thế,
“Dù người dân có khinh ghét chính quyền Sài Gòn thế nào đi nữa, có
lẽ ít ai nghĩ rằng mình đang sống trong vùng Mỹ-ngụy, vùng tạm chiếm mà chỉ
nhìn nhận: Việt Nam là một dân tộc, nhưng hiện đang bị chia cắt, có hai thể chế
chính trị: Việt Nam Cộng Hoà và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, và mong muốn một
ngày nào đó có thống nhất trong hoà bình,” theo ông.
Nói về quân đội, Nguyễn Văn Trung nhận định, “Trong quân đội ngay từ những khóa hạ sĩ quan Nam Định hồi
1951-1952 đến các khóa học của trường Võ Bị Đà lạt, Nha Trang, Thủ Đức hồi đầu
thời Đệ Nhất Cộng Hòa cũng dần dà tạo được một giới sĩ quan có trình độ tú
tài hay đại học không hề mặc cảm là lính đánh thuê của quân đội viễn chinh,
trái lại họ có được một điều mà nền Đệ Nhất Cộng Hòa đã tạo cho họ đó là một
bản sắc, một căn cước quốc gia (identité nationale).”
Một trong những mặt xuất sắc nhất của VNCH là văn học nghệ
thuật. Nó thoát thai từ sự kiện: VNCH là một xã hội mở, xã hội tự do. Theo
Nguyễn Văn Trung, trong kinh nghiệm rất riêng của mình, những nhà văn, nhà trí
thức miền Nam viết bất cứ cái gì mà không bận tâm mấy về an ninh bản thân. Họ
chỉ bận tâm về “viết cái gì” và “viết thế nào”, chứ không phải về “có thể viết được hay không.” Có được như thế là nhờ
phong cách làm việc trí thức của giới công chức trong các bộ liên hệ: bộ Văn
Hóa, bộ Thông Tin và bộ Nội Vụ. Về điểm này, cũng theo Nguyễn Văn Trung, trong
một bài viết khác, “Hướng về Miền Nam Việt Nam”, thì dưới chế
độ VNCH, “Báo thì không phải kiểm duyệt nhưng có thể bị tịch thu đưa ra tòa.
Trong khuôn khổ chính sách hạn chế tự do chính trị như vậy, nếu không xuất bản
công khai, hợp pháp, vẫn có thể in ronéo, phổ biến, bày bán ngay cả trên các
sạp báo và có thể bị tịch thu… Người cầm bút viết những điều cấm kỵ, phê phán
chính sách này, chính sách kia của nhà nước, thậm chí họp nhau viết kháng thư
phản đối, đăng trên báo mà không lo ngại về an ninh chính trị của bản thân gia
đình bạn bè. Nói cách khác, viết phê phán mà không sợ nhà nước.”[10] Trong
bài thuyết trình “Tính “văn học” trong Văn Học Miền Nam”[11] đọc
trong buổi hội thảo về Văn Học Miền Nam tổ chức tại tòa soạn nhật báo Người
Việt vào ngày 6/12/2014, tôi đã phân tích kỹ về tính chất đa dạng, tự do, hiện
đại, kế tục, nhân bản…của Văn Học Miền Nam, những tính chất khiến cho tự bản
thân, nền văn học đó đã mang một giá trị bất khả bàn cãi và cao hơn hẳn một nền
văn học được chỉ đạo bằng các nghị quyết chính trị.
Xin cụ
thể hóa nhận định trên của Nguyễn Văn Trung bằng một trích đoạn đề cập đến việc
tiếp quản trường Đại Học Vạn Hạnh sau ngày 30/4/1975 trong một bài viết ngắn
của một người miền Bắc có tham gia vào công việc này:
“Nhưng miền Bắc không chỉ giải phóng miền Nam
khỏi những văn bản cổ của văn minh nhân loại hay những trước tác nóng hổi nhất
trên thế giới nửa thế kỉ trước, miền Bắc chúng ta đã giải phóng họ khỏi một nền
đại học được xây dựng trên ý niệm tự do. Trong số sách Thư viện Vạn Hạnh còn
sót lại, có một loại sách đặc biệt, do trường xuất bản, in những bài phát biểu
của các diễn giả được mời đến nói chuyện và tranh luận với giảng viên, sinh
viên của trường. Đọc những cuốn sách đó, bạn sẽ nhận ra Đại Học Vạn Hạnh đương
thời giống như một diễn đàn khổng lồ của xã hội dân sự, nơi tất cả các xu hướng
tư tưởng khác nhau đều được cất lên tiếng nói của mình, từ chống Cộng Sản đến
chống Hoa Kỳ, ủng hộ miền Bắc đến ủng hộ VNCH… Tất cả đều có một không gian
bình đẳng để giải thích vì sao họ suy nghĩ và hành động như vậy. Lúc đó tôi đã
tự hỏi, giữa Sài Gòn thời đó thì có những tiếng nói chống lại hệ thống Cộng Sản
là đương nhiên, nhưng tại sao chế độ Việt Nam Cộng hoà lại để cho Đại Học Vạn
Hạnh (và đương nhiên không chỉ Vạn Hạnh) trở thành nơi những người chống lại
mình có thể phát biểu tư tưởng? Câu trả lời nằm ở Hiến pháp 1967 miền Nam Việt
Nam: Đại học là tự trị. (…) Những trải nghiệm như thế làm cho mọi chàng “miền
Bắc có lý luận” cảm thấy mình thuộc về “miền Nam”.[12]
Quy chế “đại học tự trị” quả là một ưu điểm đáng kể của VNCH,
góp phần tạo nên một môi trường tri thức thực sự, không thua bất cứ một đại học
của một nước tiên tiến nào trên thế giới. Chính vì thế mà dù sống trong thời
chiến, các giáo sư và sinh viên vẫn được hưởng một không khí thoải mái trong
nghiên cứu và học tập, thậm chí trong các cuộc đấu tranh đòi dân chủ, hòa bình
và chống chính quyền.[13] Tác giả bài viết trên tỏ ra ngạc nhiên về tính cách “tự do
tư tưởng” khi tiếp quản trường Đại Học Vạn Hạnh, một trường mới được thành lập
sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ. Thực ra, sự cởi mở của VNCH về phương diện
tư tưởng đã hiện hữu từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Hồi đó, hầu hết các tác phẩm
được viết trước năm 1945 của những tác giả đang sống và phục vụ dưới chế độ
Cộng Sản miền Bắc (trừ một số tác phẩm nặng tính chất tuyên truyền của Tố Hữu,
Nguyễn Đình Thi…) từ Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Tô Hoài, Anh Thơ cho đến
Thế Lữ, Nguyễn Tuân…đều được tái bản, không những thế, còn được đưa vào chương
trình dạy văn của học sinh từ tiểu học đến trung và đại học, được đánh giá xứng
đáng với giá trị nghệ thuật và vai trò của chúng trong lịch sử văn học. Các tác
phẩm đó được nghiên cứu y như chúng hoàn toàn độc lập đối với lập trường và
hành vi chính trị hiện đương của các tác giả. Nhờ thế mà thế hệ chúng tôi lớn
lên ở miền Nam biết khá rõ giá trị văn chương của từng tác giả, để làm cơ sở
đối chiếu với những sáng tác đầy tính chất tuyên truyền, phi-văn chương sau này
của họ. Cũng cần ghi nhận ngay bản “Quốc ca” VNCH (đã đổi lời một phần) được sử
dụng tại miền Nam hồi đó và tại hải ngoại hiện nay cũng được ghi tên tác giả là
Lưu Hữu Phước vốn là một người Cộng Sản. Nhà thơ Nguyễn Đăng Thường đã từng đưa
lên trang mạng “Talawas” một Phụ Lục “Thay lời phi lộ” là lời của nhà xuất bản
Hoa Tiên khi cho tái bản tại miền Nam các tác phẩm Lửa thiêngcủa Huy Cận năm 1967, Tiếng thu của Lưu Trọng Lư năm 1968, Quê ngoại của Hồ Dzếnh năm 1969… Lời phi lộ cho
thấy nhà xuất bản đã tách rời văn bản ra khỏi con người tác giả.[14]
Sau
1975, nhà nước Cộng Sản tìm mọi cách hủy diệt nền văn học nghệ thuật VNCH qua
một chiến dịch rất bài bản, liên tục và quyết liệt bằng cách đốt sách báo và
bắt bỏ tù nhà văn, nhà báo và cả những người giữ sách báo, nhưng rốt cuộc, chỉ
là công dã tràng. Họ chỉ có thể đốt phá cái hữu hình nhưng không thể đốt phá
được cái vô hình: tư tưởng và tấm lòng. Rốt cuộc, không những nền văn học đó
không biến mất mà tồn tại, dai dẳng tồn tại và được trân trọng bảo tồn cả ở
trong Nam lẫn ngoài Bắc. Càng về sau, văn học miền Nam càng được đánh giá một
cách tích cực, từ những nhà nghiên cứu chuyên nghiệp cho đến ngay cả từ chính
nhà cầm quyền Cộng Sản. Trong bài nghiên cứu khá kỹ và ít thiên kiến, “Chiến
tranh, xã hội tiêu thụ và thị trường văn học miền Nam 1954 – 1975”, đăng trên
tập san “Nghiên cứu văn học”, một trong những cơ quan nghiên cứu văn học hàng
đầu của nhà nước Cộng Sản, có đoạn viết:
“Thật vậy, những cơ sở báo chí và xuất bản
trung thực đã giúp người đọc miền Nam nhìn rõ hơn xã hội ở chung quanh mình, đã
liên kết những người thiện chí trong một nỗ lực vận động cho hòa bình, tự do,
độc lập dân tộc và một nền văn hóa văn nghệ tiến bộ, cho thấy mặc dù trong hoàn
cảnh chiến tranh khắc nghiệt, sinh hoạt văn hóa miền Nam không có tính chất một
chiều mà còn có những mầm mống của dân chủ, thông qua tiếng nói phản biện và
phản kháng.
Trong đời sống văn học miền Nam, những sáng tác và công trình
nghiên cứu chứa đựng những yếu tố dân tộc, nhân đạo, dân chủ và cách tân, xuất
hiện trên cái nền của hoạt động báo chí và xuất bản rất đa dạng và phức tạp của
nhiều khuynh hướng khác nhau về tư tưởng cũng như về nghệ thuật. Giữa các
khuynh hướng đó không có ranh giới tuyệt đối, mà có sự giao thoa, tương tác và
chuyển hóa lẫn nhau. Sách báo thân chính quyền cũng có lúc ấn hành những tác
phẩm đả kích quan chức của chế độ, thậm chí bị tịch thu. Sự chuyển biến của
sách báo khuynh tả cũng là một quá trình từ tự phát đến tự giác. Trên một tờ
báo hay một nhà xuất bản có thể xuất hiện những cộng tác viên đối lập nhau về
lập trường chính trị và quan điểm văn học.”[15]
Huỳnh Như Phương Một nhận định văn học khá lạ, nhất là dưới cái
nhìn của kẻ thắng cuộc nhìn về kẻ thua cuộc. Nếu không trích dẫn nguồn, có thể
chúng ta sẽ cho đó là bài viết của một cây bút VNCH nào đó tự đánh giá văn học
miền Nam. Còn lạ hơn nữa, mới đây, “Nhân Dân”, tờ báo chính thức của Đảng Cộng
Sản Việt Nam, cho đi một bài của Hạnh Nguyên, Ứng xử với văn học miền nam
trước 1975, trong đó có đoạn:
“Từ chỗ bị phê phán gay gắt, bị loại bỏ, cấm
phổ biến, văn học miền Nam dần dần đã được coi là một bộ phận không thể tách
rời của văn học Việt Nam, được xuất bản và nghiên cứu nghiêm túc. Nhiều tác giả
(nhà văn, nhà phê bình) miền nam xuất hiện trở lại trong đời sống văn học đương
đại, nhiều tác phẩm (sáng tác, nghiên cứu, phê bình, văn học sử) được in lại và
được bạn đọc ghi nhận. Báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, Diễn đàn văn nghệ
Việt Nam của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam đều từng mở
chuyên mục giới thiệu văn học miền nam trước 1975; nhiều tạp chí chuyên ngành ở
trung ương và địa phương cũng đăng tải những nghiên cứu về các tác giả, tác
phẩm, hiện tượng văn học, phê bình văn học Sài Gòn trước 1975; không ít luận
án, luận văn cao học và không ít đề tài nghiên cứu cấp cơ sở, cấp Bộ, cấp Nhà
nước đã lấy văn học, học thuật miền nam 1954-1975 làm đối tượng khảo sát, phân
tích, đánh giá; một số nhà xuất bản, công ty văn hóa truyền thông đã chọn lọc
giới thiệu những “người lạ mặt quen thuộc”… Nói cách khác, sự thay đổi trong
thái độ đối với văn học miền nam diễn ra ở cả khu vực nghiên cứu, xuất bản, lẫn
giảng dạy, sưu tầm, giới thiệu, phổ biến đến công chúng. Hoạt động được khuyến
khích là vượt qua định kiến, thiên kiến, tỉnh táo chọn lọc những tác phẩm có
yếu tố dân tộc, tinh thần nhân đạo, dân chủ, yêu nước và tiến bộ, có giá trị
cách tân.
Có thể nói, nếu không có không khí cởi mở, chắc chắn những sáng
tác của Du Tử Lê, Trần Thị NgH, Đinh Hùng, Nguyên Sa, Bùi Giáng, Phạm Công
Thiện…; những nghiên cứu của Nguyễn Văn Trung, Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm,
Thanh Lãng, Toan Ánh… không có điều kiện tái xuất hiện trong đời sống văn học.
Nhờ sự thay đổi trong cách ứng xử, mới có những nghiên cứu về các trường hợp
như Lê Tuyên, Thanh Tâm Tuyền… về tư tưởng triết học và các khuynh hướng lý
luận – phê bình văn học ở đô thị miền nam 1954 – 1975. Theo GS Huỳnh Như
Phương: “Từ 1975 đến nay, khoảng 160 tác giả và dịch giả ở các đô thị miền nam
có tác phẩm được tái bản chính thức trong nước, trong đó có người còn sống,
người đã mất và một số ít đang định cư ở nước ngoài. Tuy nhiên do nhiều nguyên
nhân, việc làm đó chưa thật hệ thống và đầy đủ. Trong thời điểm hiện nay, xúc
tiến việc tập hợp, tuyển chọn những tác phẩm, công trình có giá trị là việc làm
đúng lúc và cần thiết, không chỉ để cung cấp tài liệu cho các nhà nghiên cứu mà
còn góp phần làm phong phú và đa dạng đời sống tinh thần của đất nước.”[16]
Từ chỗ “ngăn chặn, chống, phê phán, đấu tranh, quét
sạch văn hóa nô dịch, đồi trụy, lai căng; xóa bỏ những xuất bản phẩm phản động,
khiêu dâm; trừng trị nghiêm khắc những ai cố ý vi phạm các quy định của Nhà
nước…” đến chỗ thừa nhận văn học miền Nam là “một bộ phận không thể tách rời của văn học Việt Nam”, “không chỉ để cung cấp tài liệu cho các nhà nghiên cứu mà còn góp
phần làm phong phú và đa dạng đời sống tinh thần của đất nước” quả
là một thay đổi 180 độ. Đâu là động lực của thái độ tích cực đó? Có nhiều lý
do, nhưng một trong những lý do chính theo tôi, đó là giá trị thuyết phục của
tự bản thân Văn Học Miền Nam. Nhận định về ảnh hưởng của văn hóa nghệ thuật
miền Nam đối với miền Bắc, nhà thơ Hoàng Hưng, một trong những thành viên nòng
cốt của trang mạng Văn Việt ở trong nước, nhận xét:
Sự tiếp xúc với Văn học Miền Nam trước 1975 đã tạo bước ngoặt
quyết định về khuynh hướng tư tưởng cho không ít tác giả của nền văn học “chính
thống” miền Bắc. Tinh thần tự do, nhân bản và cách tân của nó đã dần dần “tẩy
rửa” thói quen “tự kiểm duyệt” và “phục vụ chính trị”, giáo điều “hiện thực xã
hội chủ nghĩa”… vốn ngấm sâu vào tâm trí của thế hệ cầm bút “chống Pháp chống
Mỹ”. Chắc chắn nó đã khởi hứng cho những ý tưởng thay đổi mạnh mẽ của vài nhà
lãnh đạo văn nghệ cuối thập niên 1970 như Trần Độ, Nguyên Ngọc… và của nhiều
cây bút thành công từ sau khi có chính sách “Đổi mới”cuối thập niên 1980. Hầu
hết những cây bút trẻ hiện nay ở Việt Nam đang đi theo tinh thần ấy.[17]
4.
Trong lúc các tác phẩm văn học VNCH vẫn còn được xuất bản hạn
chế, thì một hình thái nghệ thuật khác của VNCH, ca nhạc, hay nói theo cách nói
phổ biến hiện nay là nhạc vàng, gần như “thống trị” sinh hoạt ca nhạc trong
nước. Ca nhạc miền Nam đã có ảnh hưởng từ đầu, ngay sau ngày 30 tháng Tư. “Sau khi Quân đội miền Bắc tiếp quản miền Nam, dường như nhạc miền
Nam lại đổ bộ ra Bắc,” theo Jason Gibbs trong một bài nghiên
cứu công phu về loại nhạc này, Nhạc vàng “hóa vàng”.[18]Gibbs
viết:
“Sau năm 1975, với sự sụp đổ của Sài Gòn, trước sự ra đi của người
Mỹ và sự tan rã của Việt Nam Cộng hoà, những quan toà văn hoá Việt Nam đối diện
với tình huống khó xử mới. Họ tiếp quản một địa bàn có đến hàng triệu tờ, đĩa
và băng – gần hết là nhạc vàng – đã được mua bán trao đổi phân phối. (…) Từng
bị tiêm nhiễm một thứ văn hoá, không dễ dàng để một người từ bỏ nó chỉ một sớm
một chiều. Mặc dù không có khả năng nghe một bài hát cũ nữa, một người có thể
nhớ nó, hát hoặc nhảy với nó trong một thời gian dài trong tương lai. Một bài
hát cũ chỉ có thể chắc chắn đã chết khi nó không thể còn được nhớ đến, nhảy múa
hay hát hò gì nữa. Tuy nhiên, ngoài vấn đề làm hồi tỉnh những ai đã nuốt phải
thuốc độc của chủ nghĩa thực dân mới, họ phải đối phó với sự lan truyền của
những người lính Quân đội miền Bắc khi họ mang theo loại nhạc này khi trở về
nhà hay làng quê họ. Một nhà nghiên cứu giải thích rằng sự quảng bá của loại
nhạc này đối với người miền Bắc thành ra một vấn đề cấp thiết hơn là cố ngăn
dừng chúng lại ở miền Nam bởi vì người Bắc nghe nhạc ấy như một món mới lạ và
chưa được “miễn dịch” chống lại trước đó.” (…) “Lần đầu đến Việt Nam năm 1993 tôi đã rất kinh ngạc là thứ nhạc phổ
biến ở Việt Nam cộng sản lại giống với nhạc mà người Mỹ gốc Việt vẫn nghe, dĩ
nhiên là chúng không được phát thanh, và trong mọi trường hợp là bất hợp pháp.
Tuy là sản phẩm buôn lậu, những băng cassette và video vẫn được trao đổi tự do,
và nhạc này có ở trong gần như mọi nhà tôi đến. Mặc dù nhạc vàng vẫn phải mang
tội danh phản động, ít người nghe bình thường để ý đến điều đó.” Rốt
cuộc, nhạc vàng, thay vì hiểu
là thứ nhạc vàng vọt, ủy mị thì lại trở thành thứ nhạc với ý nghĩa tích cực:
vàng là kim loại quý, như được hiểu trước năm 1975 ở Sài Gòn, cũng theo
Gibbs.
Nói về sự “thống trị” của ca nhạc VNCH trong sinh hoạt giải trí
hiện nay ở trong nước, nhà thơ Hoàng Hưng, cho biết, “Nhu cầu ca hát, một trong những nhu cầu tự nhiên nhất của con
người, sau nhiều năm bị “nhạc đỏ” độc quyền thống trị, đã bùng lên với “nhạc
vàng” khắp phố phường ngõ xóm (…) Đến mức bây giờ, nhạc “bolero” một thời vốn
không được đánh giá cao lắm bởi giới có học ở Sài Gòn, nay đang “tràn ngập lãnh
thổ”, chiếm lĩnh không gian âm nhạc cả chính thống lẫn tự phát!” Tại
sao có sự chiếm lĩnh đó? Theo nhận xét của Hoàng Hưng, một trong những điểm
đáng nói là phong cách hát. “Các ca sĩ miền Bắc nhìn chung
được học bài bản hơn, nhưng sau khi nghe ca sĩ miền Nam, số đông người nghe
bỗng nhận ra cái gì đó không thú lắm ở lối hát miền Bắc. Thì ra kỹ thuật thanh
nhạc không thay thế được tình cảm tự nhiên, càng không lại được cái hồn gửi vào
tiếng hát, và “bel canto” của “opera” không thể cuốn hút bằng cái sự tròn vành
rõ chữ tiếng Việt!”[19]
Nói chung là như thế, nhưng nếu đi sâu hơn, ta sẽ nhận ra rằng
chuyện nhạc vàng-nhạc đỏ không chỉ thuần túy là vấn đề ca nhạc, mà hàm chứa
trong đó một cuộc “đấu tranh chính trị” dai dẳng và quyết liệt. Cứ theo dõi
chuyện tranh cãi về việc “cho cho cấm cấm” rồi lại “cấm cấm cho cho” một số các
bản nhạc miền Nam như “Con đường xưa em đi”, “Tôi đưa em sang sông, hay “Ly
rượu mừng” chẳng hạn, chúng ta sẽ thấy trước sau, nhà nước Cộng Sản đứng trước
một sự chọn lựa “chẳng đặng đừng”, một chọn lựa đau đớn khi cho phép dòng nhạc
miền Nam tiếp tục chiếm lĩnh thị trường giải trí cả nước. Phải nói là “không
ngăn chặn được” chứ không phải là “cho phép”. Dù trực tiếp hay gián tiếp, dù
bóng gió xa xôi hay êm đềm gần gũi, nhạc miền Nam nói chung chứa đựng trong đó
tất cả cái không khí đa dạng, thấm đẫm tình người, tình nước của Việt Nam Cộng
Hòa. Nói như Đỗ Trung Quân, sự thắng thế của nhạc miền Nam là cuộc “phục thù
ngọt ngào” của bên thua cuộc. “Khán giả chọn lựa nó, thứ âm
nhạc chôn mà không chết. Muốn nó chết, dễ thôi! Các anh hãy làm nhạc hay hơn
nó, có tài năng hơn nó để vĩnh cửu như nó …Dèm pha, mai mỉa, xúc phạm nó vô
nghĩa! Nó càng bất tử! Chỉ vậy thôi!” [20]
Quả
thật là phục thù ngọt ngào! Trong “Trận chiến nhạc vàng”, tác giả Kiva đánh
thẳng vào mục tiêu, không ỡm ỡm ờ ờ gì cả khi cho rằng:
“Sự hồi sinh mạnh mẽ của dòng nhạc vàng cho
thấy âm nhạc VNCH lúc xưa chưa có thua. Sau 40 năm chiến đấu cam go, bằng một
sức mạnh mềm, nhạc vàng đã lật ngược được thế cờ, giành chiến thắng trên cả
nước. Đầu thế kỷ 21, tôi đã thấy được một cuộc chiến tranh nhân dân ôn hòa,
lãng mạn, thú vị mà không do những người Cộng Sản điều khiển. Một cuộc chiến
tranh không có bom đạn, sắt máu, mà chỉ có lời ca tiếng nhạc du dương, êm đềm,
thơ mộng. Nhạc xưa đã trở lại, nhưng không phải là sự thụt lùi mà là sự đáp ứng
nhu cầu, phản ảnh tâm thức của người dân muốn hướng đến một xã hội tràn đầy yêu
thương, nhân bản, thấm đượm tình quê hương dân tộc.”[21]
Ngay cả
trên một trong những tờ báo mạng hàng đầu ở trong nước hiện nay (vnexpress.net),
ta cũng tìm thấy những lời ca ngợi âm nhạc miền Nam và thẳng thắng phê phán
chính sách cấm đoán của nhà cầm quyền Cộng Sản đối với loại nhạc này:
“Những thân phận lạc loài vì chiến tranh, kêu
đòi hòa bình, kêu gọi chấm dứt chiến tranh là điểm nhấn của cả một thời kỳ
người đô thị miền Nam hát vì yêu nước, đến nay cũng vẫn không được phổ biến một
cách oan uổng; như ca khúc Da vàng của Trịnh Công Sơn, dù nhạc sĩ sau ngày
Thống nhất cho đến tận khi mất vẫn cống hiến rất nhiều cho âm nhạc nước nhà.
Nếu nghe thật kỹ ca từ “Một mai giã từ vũ khí” của Trịnh Lâm Ngân, chỉ thấy
khắc khoải mơ ước hòa bình để xây dựng lại một xã hội người người thương yêu
nhau, vậy mà nó luôn nằm đầu bảng danh sách các ca khúc bị cấm biểu diễn. (…)
Quan trọng hơn, một thực tế không thể chối cãi, đó là rất nhiều trong những bài
hát bị cấm phổ biến vẫn được mọi người yêu mến. Dù được viết đã rất lâu, bằng
cách nào đó, chúng đang và còn nói được tiếng lòng đại chúng ở hiện thời. Việc
cấm sử dụng các ca khúc được nhiều người yêu mến là đi ngược quy luật xã hội,
vô ích trong quản lý và tốn thêm các chi phí khác cho việc giám sát.”[22]
Nhạc miền Nam trở lại không chỉ bằng nhạc mà bằng cả chính các
ca nhạc sĩ một thời xây dựng nên không khí VNCH. Dân miền Nam muốn sống lại
những tháng năm xưa êm đềm với các thần tượng của mình, còn dân miền Bắc thì
lại muốn được trực tiếp chia xẻ cái không khí chứa chan tình người mà họ không
có cơ hội được hưởng vì sự biến mất đau đớn của VNCH. Những chương trình ca
nhạc như thế, nhất là ở Hà Nội, là những “biến cố” xưa nay hiếm, đánh động vào
một thế giới hoài niệm rưng rưng, xa xót![23]
Văn học nghệ thuật quả đã mang VNCH lừng lững đi vào, đi sâu trong
lòng đất nước. Đây không phải là một diễn biến hòa bình. Cũng không phải
một vận động thay ngôi đổi chủ. Đơn thuần chỉ là một hiện tượng phục hồi. Sự
phục hồi của một giá trị, một giá trị vô cùng lớn lao mà nếu biết vận dụng, nó
có thể đưa đến sự thay đổi ngoạn mục dòng sinh mệnh dân tộc.
5.
Ngoài
yếu tố tự thân, sự phục hồi này còn được hỗ trợ bởi những yếu tố khách quan
khác.
Trước
hết là sự phát triển của mạng xã hội, đặc biệt là facebook. Qua mạng xã hội,
lần đầu tiên người dân cảm thấy mình được tự do, được thoát ra khỏi sự kềm chế
của nhà nước, được nói, được viết, được trao đổi đủ thứ thông tin đa dạng, đa
chiều mà không phải thông qua một hệ thống kiểm soát nghiêm ngặt của bộ máy
công an. Cũng qua mạng xã hội, họ xây dựng được một xã hội khác với thứ xã hội
bị kềm kẹp bên ngoài: xã hội dân sự. Tất cả tạo thành một sức mạnh, làm đối
trọng với nhà cầm quyền. Các tư tưởng dân chủ, tự do được đề cao. Và đặc biệt,
các trang mạng xã hội cũng là nơi chứa đựng hình ảnh và thông tin đáng quý và
hữu ích về một VNCH ngày cũ, từ âm nhạc, văn chương, nghệ thuật cho đến quân
đội, giáo dục, kinh tế…
Mặt khác, do sự biến mất các yếu tố hấp dẫn của các chiêu bài lý
tưởng (độc lập, giai cấp, chủ nghĩa…) cũng như vì sự mâu thuẫn về quyền lợi
phát sinh do một đảng cầm quyền quá lâu, “Nền chính trị Việt Nam đã chính
thức bước vào chế độ tài phiệt (plutocracy),” theo Đoan Trang và
Nguyễn Hữu Long. Phân tích về điểm này, hai tác giả nhận định:
“Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhân vật trung
tâm của chính trị Việt Nam thập kỷ qua, đã phơi bày một phần cuộc đấu đá quyền
lực trong đảng ra trước mặt báo và pháp đình, thông qua chiến dịch chống tham
nhũng vô tiền khoáng hậu trong lịch sử đảng. Chiến dịch này đã làm thay đổi hẳn
cách nhìn về quan chức nhà nước và cơ quan nhà nước trong công chúng nước ta.
Trước đây, người ta coi làm quan, làm nhà nước là một công việc ổn định, vừa
màu mỡ vừa an toàn, “đến hẹn lại lên”. Nay, ấn tượng đó đã sụp đổ cùng với
những Đinh La Thăng, Nguyễn Bắc Son, Trương Minh
Tuấn, v.v. (…) Hai cái chết bí ẩn của Nguyễn Bá Thanh và Trần Đại Quang, cùng với vụ mất tích kỳ lạ
của Đinh Thế Huynh, tiếp tục phủ bóng chính trường với nhiều màu sắc ma quái, tạo ra
ấn tượng mạnh mẽ trong công chúng về những phương pháp thanh trừng nội bộ cổ
xưa. Pháp luật, suy cho cùng, vẫn chỉ là công cụ thanh trừng chứ không phải là
nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước. Không có thứ công lý nào đạt được với
một thứ pháp luật như vậy.”[24]
Trong
tình huống này, phủ nhận cơ chế nhà nước Cộng Sản hiện nay tất yếu phải dẫn đến
chỗ thừa nhận những giá trị mà VNCH đã từng thể hiện trong thời gian 20 năm
trước đây. Nhìn chiến hạm Mỹ Theodore Roosevelt ghé thăm Đà Nẵng vào tháng
3/2020 vừa qua, nhìn cách nhà nước Cộng Sản đang loay hoay đòi biển đòi đảo,
loay hoay trườn ra khỏi ảnh hưởng của chế độ bá quyền xảo quyệt phương Bắc, tôi
nhận ra một điều vừa khôi hài lại vừa chua chát: Chính quyền Cộng Sản đã mất
công chiến đấu, phỉnh gạt và hy sinh bao nhiêu thế hệ để cũng đi đến cái mục
tiêu mà VNCH đã từng theo đuổi: thân Mỹ, chống Tàu, biến Việt Nam thành một đất
nước pháp trị với tam quyền phân lập, đa nguyên trong sinh hoạt chính trị, tự
do trong kinh tế thị trường, cởi mở trong văn học nghệ thuật, đất đai thuộc sở
hữu tư nhân, tự trị đại học…Bị giam giữ trong nhà tù ý thức hệ, bị nhốt kín
trong nỗi đam mê thành tích quá khứ, đảng Cộng Sản tiếp tục dẫn dắt dân tộc đi
vào một con đường “dead-end”, không lối thoát.
Bốn
mươi lăm năm bát nháo, ỡm ờ! Bốn mươi lăm năm loay hoay. Bốn mươi lăm năm sinh
sát. Rốt cuộc, chính quyền Cộng Sản hiện hình là một cơ chế nửa nạc nửa mỡ,
tiến thối lưỡng nan. Hơn thế nữa, cái chính quyền đó tự biến thành một khối u
ác tính của chính mình. Nó tự đối đầu với chính nó, tự bào mòn chính nó, tự cắt
xé chính nó. Thế lực phản động không còn đến từ bên ngoài, mà mưng mủ từ bên
trong. Biến cố Đồng Tâm chẳng hạn là biểu hiện sinh động, là đỉnh cao của cái
ung nhọt tự phát trong lòng chế độ. Chính những người đã từng hy sinh xương máu
của họ để phục vụ chế độ càng ngày càng đứng lên chống lại nó, rạch ròi, dứt
khoát và đầy chính nghĩa.
Trong
một bối cảnh như vậy, nếu người ta hướng về VNCH cũng là điều rất hiển nhiên.
Và hợp lý. Một trong những nhà nghiên cứu văn học tiếng tăm trong nước, Vương
Trí Nhàn, đã can đảm nhận định về Tô Thùy Yên và qua đó, về những con người
VNCH như sau:
“Qua nhiều tài liệu về các trại tù cải tạo được thiết lập sau
75, tôi biết có một nguyên tắc chi phối các trại tù này là làm cho những người
bị giam trong đó mất hết cảm giác và suy nghĩ của một con người bình thường,
không còn đớn đau mà cũng không còn hy vọng, tóm lại là chỉ biết sống qua ngày
như một thứ súc vật bị làm nhục. Trường hợp con người trong Tô Thùy Yên sau khi
ra tù bộc lộ qua bài thơ “Ta về” chứng tỏ mọi ý đồ loại đó đã phá sản, đây
không phải trường hợp cá biệt ở một hai người mà phổ biến ở rất nhiều người.
Sau khi bị tù đầy trở về họ vẫn giữ được lòng khao khát yêu đời và có đủ khả
năng gia nhập vào cuộc sống hiện đại khi ra sống ở hải ngoại. Chính họ là niềm hy vọng của dân tộc chúng ta. Mà điều đó không
phải là ngẫu nhiên vì nó đã được chuẩn bị từ trong cuộc sống hai mươi năm
1955-1975” (Tôi nhấn mạnh).
Đây là một nhận định chính xác, can đảm của một nhà phê bình văn
học, người ở bên phe thắng cuộc. Những người hiện đứng lên tranh đấu cho một
nước Việt Nam giàu mạnh, tự do, dân chủ ở trong nước đang đòi hỏi cái mà chúng
tôi đã từng tranh đấu để có và đã từng có vào những
năm tháng VNCH. Giá trị VNCH, do đó, không có gì cao xa, cũng chẳng cần phải
dựa trên một lý thuyết nào, trái lại, rất đơn giản. Đơn giản như lao Thừa Phủ
ngày nào đã cho phép hai tù nhân học sinh Lê Hiếu Đằng và Lý Thiện Sanh được đi
thi Tú Tài để khỏi đánh mất tương lai. Đơn giản như những bài hát bolero VNCH,
dân dã, thắm tình. Không cần kinh qua những cuộc đấu tố cải cách long trời lở
đất và những năm tháng chiến tranh hao người tốn của. Cũng không cần những bà
mẹ anh hùng, những tượng đài, những địa đạo, những thi đua, những sùng bái cá
nhân và lăng tẩm, vân vân.
Xin được nhắc lại, nhất định là không thừa: Rốt cuộc, đổi mới là
gì, cải cách là gì nếu không muốn nói là con đường dẫn đến những giá trị VNCH.
Chả thế mà, giáo sư Nguyễn Văn Trung nhận định, “Cái gọi là “đổi mới” thực chất
là “ đổi mới chẳng qua là trở về những cái cũ đã bị phủ nhận”.[25] Hiểu
như thế, VNCH không phải là quá khứ, mà chính là tương lai. Là
mô hình của một Việt Nam đổi mới, dân chủ, tự do.
Khi
thừa nhận tính cách hợp pháp của chế độ VNCH, nhà cầm quyền Cộng Sản chắc không
muốn nghĩ tới điều đơn giản đó.
Không
sao!
Lịch sử
có những lối đi riêng bất ngờ của nó.
TDN
(4/2020)
_______________________
Tài liệu tham khảo:
– FB
Vương Trí Nhàn
– Jason
Gibbs, Nhạc vàng hóa vàng (Nguyễn Trương Quý dịch)
– FB
Nguyễn Lương Hải Khôi: ĐH Vạn Hạnh được tiếp quản như thế nào?
•- FB
Nhật ký yêu nước:Đỗ Trung Quân nói về âm nhạc và Nguyễn Long Ẩn
https://www.facebook.com/nhatkyyeunuoc1/posts/3248934198466638/
• Dương
Thu Hương
– Nhân
Dân online: Ứng xử với văn học miền Nam trước 1975 (Hạnh Nguyên)
– Phỏng
vấn Hoàng Hưng (Diễn Đàn Thế Kỷ)
–
Nguyễn Văn Trung, Tưởng niệm VNCH (Văn Học (Cali) số 174, 10/2000)
– Đoan Trang & Nguyễn Hữu Long, Chính trị Việt Nam: một thập kỷ nhìn lại, Luật Khoa tạp
chí.
– Tạp chí Nghiên cứu văn học,
Viện Văn học – Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, số 4 – 2015, tr.
27-40.
– Đoan Trang & Nguyễn Hữu Long, Chính trị Việt Nam: một thập kỷ nhìn lại, Luật Khoa tạp
chí. Xem ở:
[1] Trong toàn bài, nhóm chữ “Việt Nam Cộng Hòa”, do phải lập
đi lập lại nhiều lần, nên để tránh rườm rà, người viết sử dụng chữ tắt VNCH để
thay thế.
[2]Michael Bùi, Lucky Ride luckyride9@yahoo.com [ThoVan] thovan@yahoogroups.com,
April 25th, 2020.
[3]Dương Thu Hương, Chốn vắng, tiểu
thuyết. Có thể xem ởĐinh Quang Anh Thái, Giọt nước mắt người phụ nữ “bên
thắng cuộc”:http://www.buctranhvancau.com/new-blog/2018/11/25/git-nc-mt-ngi-ph-n-bn-thng-cuc-inh-quang-anh-thi-thng-hai-2018
[4] Để biết rõ hơn về hai Công Hàm này, vào xem ở: Phùng Anh Khương, Há miệng mắc quai: Nếu luật sư Trung Quốc dùng lý lẽ VNCH là “ngụy quyền”…(Luật Khoa tạp chí)
[5] Công Hàm A/72/692 được ký ngày 26/12/2017 và được đưa vào
hồ sơ lưu trữ Liên Hiệp Quốc ngày 30/1/2018. Xem ở:
[8] Nguyễn Văn Trung, “Nhìn Lại Những Chặng Đường Đã Qua”,
chương 8: Tưởng niệm Việt Nam Cộng Hòa, Tạp
chí Văn Học (Cali) số 174, 10/2000, từ trang 3 đến trang 32. Có thể tìm xem ở
thư Viện Người Việt: https://issuu.com/nvthuvien/docs/tapchivanhoc_174?mode=window&viewMode=doublePage
[9] tức là tách biệt tôn giáo khỏi nhà nước.
[10]Hướng về Miền Nam Việt Nam, Khởi Hành số 92, tháng
6/2004. Dẫn theo Thụy Khuê, Văn Học miền Nam 1954-1975.
Xem ở: http://vanviet.info/van-hoc-mien-nam/van-hoc-mien-nam/
[11] Trần
Doãn Nho, “Tính văn học trong Văn Học Miền Nam”. Xem ở Da
Màu: https://damau.org/34977/tinh-van-hoc-trong-van-hoc-mien-nam
<a
name="_edn12"
href="file:///C:/Users/Administrator/Desktop/BaiChoDaMau/#_ednref12"
style="margin: 0px; padding: 0px; border: 0px; vertical-align: baseline;
color: rgb(153, 53, 38);