TS Nguyễn Tiến Hưng
Bản quyền hình ảnh Nguyen Tien Hung Image caption Một trong những cuộc họp Mỹ - Việt cuối cùng trong Dinh Độc Lập. Tác giả Nguyễn Tiến Hưng (bìa phải), ngồi cạnh Đại tướng Cao Văn Viên |
Trời đã về
khuya, tôi nóng lòng ngồi chờ Eric von Marbod, Đệ nhất Phó Phụ tá Bộ trưởng
Quốc phòng Mỹ, thành viên của phái đoàn Tướng Fred Weyand do Tổng thống Gerald
Ford gửi sang Sàigòn để thẩm định tình hình.
Hôm ấy là ngày 28 tháng 3/1975.
Sang ngày
31/3/1975 một buổi họp với phái đoàn Weyand dưới sự chủ tọa của Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu tại Phòng Tình hình Dinh Độc Lập vào lúc 5 giờ chiều. Ngoại
trưởng Vương Văn Bắc và chúng tôi cùng tham dự. Đây là buổi họp Việt - Mỹ cuối
cùng sau 25 năm người Mỹ dính líu vào Việt Nam.
Mọi người cố
tỏ ra bình tĩnh để cho đài truyền hình quay phim. Tôi ngồi cạnh Đại tướng Cao
Văn Viên cũng cố gắng có một nụ cười.
Nhưng khi
truyền thông vừa ra khỏi thì bầu không khí nặng nề đã bao trùm căn phòng: Đà
Nẵng vừa bị bỏ ngỏ ngày hôm trước.
Nhiều vấn đề
được đề cập nhưng quan trọng nhất là làm sao có được tiếp liệu cho lực lượng
quân đội còn lại.
Tướng Weyand
kết luận:
"Chúng
tôi sẽ viện trợ theo nhu cầu của VNCH và sẽ trình bày những nhu cầu này trước
Quốc Hội."
Ông Marbod
thêm:
"Nếu có
lệnh thì việc tiếp liệu sẽ khởi sự ngay vì đã có sẵn ở Okinawa và Đại
Hàn."
Ngày hôm sau,
1/4/1975 Tổng thống Thiệu chủ tọa một cuộc họp nữa để bàn việc tái tổ chức một
số đơn vị quân đội bị tan rã nếu có được tiếp liệu như Tướng Weyand hứa. Về
phía dân sự, Ngoại trưởng Vương Văn Bắc và chúng tôi cùng tham dự.
Qua hai cuộc
họp này và sau những diễn biến và những buổi họp tại Dinh Độc Lập trong ba
tháng đầu 1975, chúng tôi thấy những khó khăn về vật chất cũng như tinh thần
không thể vượt qua được của Miền Nam đã bộc lộ ra thật rõ ràng.
Hầu hết nó
phản ảnh những khuyết điểm của chiến lược "Việt Nam Hóa" và việc Quốc
Hội Mỹ cắt quân viện.
Mỹ hóa chiến tranh
Trước hết,
tại sao phải Việt Nam hóa? Vì trước đó cuộc chiến đã bị Mỹ hóa.
Trong cuốn
'Việt Nam 1945-1995' (trang 329) GS Lê Xuân Khoa trích dẫn một bài phỏng vấn
của TT Thiệu với tạp chí The New Republic như sau:
"Lý do
chính mà Việt Cộng cố thủ mạnh mẽ được như vậy là vì dân chúng vẫn tin rằng
chẳng có gì khác giữa người Pháp mà họ gọi là thực dân và người Mỹ mà họ gọi là
đế quốc." Ngoài ra. Chương trình "Mỹ hóa" chiến tranh còn phạm
phải ít nhất hai sai lầm quan trọng khác:
Bản quyền hình ảnh Dirck Halstead Image caption Hoa Kỳ rút quân khỏi Nam Việt Nam năm 1975 |
"Vì quá
tin tưởng ở sức mạnh của mình và coi thường khả năng của quân lực VNCH, Hoa Kỳ
không trang bị cho họ vũ khí hiện đại. Quân Mỹ vào Nam Việt Nam từ tháng 3/1965
nhưng VNCH chỉ có súng Garrands từ Thế Chiến II. Mãi tới tháng 6/1968 sau Tết
Mậu Thân, Hoa Kỳ mới cung cấp súng M-16 cho binh sĩ VNCH trong khi bộ đội cộng
sản miền Bắc đã sử dụng AK-47 từ mấy năm trước. Hầu hết máy bay trực thăng rất
cần thiết trong các cuộc hành quân đều do phi công Hoa Kỳ lái và chỉ chịu mệnh
lệnh của cấp chỉ huy người Mỹ."
Quân đội Hoa
Kỳ chỉ quen với chiến tranh qui ước không thích hợp với những điều kiện chiến
đấu chống du kích trong núi rừng nhiệt đới. Nhưng Hoa Kỳ vẫn tin rằng sẽ thắng
bất cứ loại chiến tranh nào bằng cách sử dụng hỏa lực thật mạnh và thật nhiều.
Lối đánh trận
kiểu nhà giàu này quá phí phạm, coi thường sinh mạng của dân chúng mà thường
không đem lại kết quả mong đợi. Trái với mục tiêu 'tranh thủ nhân tâm,' lối
đánh trận này chỉ làm cho dân chúng có cảm tình với chủ trương "chống Mỹ
cứu nước" của Cộng sản. Đó cũng là nguyên nhân của nhiều trường hợp bất đồng
ý kiến giữa các cố vấn Mỹ và các cấp chỉ huy người Việt."
Theo nhận xét
của một vài tướng lãnh, nó lại còn gây nên một tình trạng tâm lý bất lợi: đó là
làm cho quân đội VNCH quen với cung cách chiến đấu kiểu nhà giàu.
Việt Nam hóa
thực chất là gì?
Tổng thống
Richard Nixon muốn "giải kết vai trò của Mỹ" ở Việt Nam
(De-americanization of the Vietnam War). Bộ trưởng Quốc Phòng Melvin Laird
thuyết minh nên dùng từ "Việt Nam hóa" (Vietnamization).
Chương trình
này đã giúp quân đội VNCH trở thành hùng mạnh nhất tại Đông Nam Á. Về mặt kinh
tế nó cũng giúp Miền Nam có được những bước tiến vượt kỳ vọng, mặc dù chịu sức
ép lớn lao của lạm phát siêu mã.
Tuy nhiên, về
mặt quân sự thì nó có nhiều khuyết điểm:
Quân đội hùng
mạnh nhưng thiếu bền vững (sustainability) và chỉ mạnh nếu có được hỏa lực và
tính cơ động cao (fire power and mobility).
Cả hai yếu tố
hỏa lực và di động đều đòi hỏi phải có sẵn đồ phụ tùng để bảo trì và sửa chữa.
Nguyên 1,429 tàu chiến của Hải quân VNCH đã cần tới 64,240 phụ tùng và dụng cụ
sửa chữa, Không quân: 192,000, Lục quân: 127,000 phụ tùng.
Năm 1974 khi
Quốc Hội Mỹ cắt quân viện, Đại tướng Cao Văn Viên phải hạn chế tối đa đạn dược,
xăng nhớt.
Có lần chúng
tôi đi thăm Sư đoàn 1 đóng ở Huế, Tướng Nguyễn Văn Điềm chỉ lên phía đồi núi và
nói:
"Chúng
tôi luôn bị pháo của quân đội Bắc Việt từ trên đó mà không có khả năng đáp
trả."
Tinh thần suy sụp
Tình trạng
này ép mạnh vào tinh thần Miền Nam như Đại tướng Viên báo cáo:
Bản quyền hình ảnh Bettmann Image caption Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và phu nhân - hình tư liệu |
"Đạn tồn
kho sẽ hết vào tháng 6, 1975."
Cá nhân chúng
tôi đã từng chứng kiến sự khắc khoải của TT Thiệu, nhất là khi ông ra lệnh dốc
hết dự trữ của Ngân hàng Quốc gia để mua tiếp liệu: dầu lửa thì đã tìm thấy
ngoài khơi nhưng chưa khai thác kịp.
Nói về hỏa
lực, phải kể tới số quân cụ được chuyển giao trong chương trình Enhance và
Enhance Plus (1972). Truyền thông Mỹ hay nói tới việc đã chuyển cho Miền Nam
hàng tỷ đôla khí giới mà sao vẫn bại trận. Ta hãy nghe Tướng John Murray, tùy
viên quốc phòng ở Sàigòn bình luận:
"Ai cũng
tưởng lầm về vụ chuyển giao quân cụ cho VNCH. Thật ra đó chỉ là những quân cụ
hư hỏng hoặc cũ kỹ, lỗi thời. Phần lớn là đồ thặng dư, đòi hỏi phải bảo trì quá
nhiều."
Mỗi khi ông
Murray yêu cầu Bộ Quốc phòng gửi phụ tùng để bảo trì thì đều bị từ chối:
"Miền Nam phải ôm lấy những thứ này như của nợ."
Không chuyển giao hệ thống tham mưu
Chương trình
Việt Nam hóa chỉ tập trung chủ yếu vào việc chuyển giao quân cụ, tiếp liệu (như
kho Long Bình), không đặt nặng vấn đề tham mưu và điều hợp chiến trường. Như
vậy, khả năng tham mưu của Bộ Tổng Tham Mưu và tư lệnh chiến trường là giới
hạn.
Đây có thể
cũng là một lý do mà nhiều khi Tổng thống Thiệu chỉ huy trực tiếp từ Dinh Độc
Lập (như chúng tôi chứng kiến trong buổi họp ngày 25/3/1975 về lệnh bỏ Huế).
Ngay từ thời còn là một sĩ quan, khả năng tham mưu của ông đã được đồng liêu và
tướng lãnh Mỹ khen ngợi. Nhưng ông bị chỉ trích là tập trung quyền hành.
Không giúp VNCH có thêm lực lượng trừ bị
Vấn đề này
thì chúng tôi nắm rất vững vì đã từng nhận chỉ thị cùa Tổng thống Thiệu để giúp
Đại tướng Viên và Trung tướng Đồng Văn Khuyên, đặc trách tiếp vận, đi
"lobby" phía Mỹ giúp trang bị thêm hai sư đoàn để làm lực lượng trừ
bị.
VNCH có trên
một triệu quân nhưng chỉ có 13 sư đoàn (200,000) là quân chính quy, phần còn
lại là địa phương quân, dân quân...giữ an ninh địa phương.
TT Thiệu
thường hay phàn với chúng tôi, "Mình chỉ có hai sư đoàn Dù và Thủy quân
Lục chiến phải dùng trực thăng bốc đi hết trận này tới trận khác."
Việt Nam Hóa quá ngắn về thời gian
Chương trình
bắt đầu từ Hè 1969 và chấm dứt cuối 1972: như vậy là chỉ có ba năm rưỡi. Ông
Von Marbod ví vấn đề thời gian vắn vỏi như "muốn cho chín người đàn bà đẻ
một đứa con trong một tháng."
Bản quyền hình ảnh Bettmann Image caption Các nữ quân nhân VNCH học kỹ thuật vô tuyến ở trường gần Vũng Tàu |
Nó lại bị
gián đoạn bởi hai trận chiến: "Lam Sơn 719" đánh sang Lào (Xuân 1971)
và "Mùa hè đỏ lửa" (Xuân - Thu 1972).
Sau hai trận
này sức mạnh của quân đội bị tiêu hao. Cấp lãnh đạo quân sự mất đi gần 20% của
thời gian Việt Nam hóa có thể dùng để tổ chức nhiều khóa hội thảo về tham mưu.
Việt Nam hóa trong bối cảnh đàm phán
Chiến lược
giải kết khỏi Việt Nam dựa vào hai cấu phần: Việt Nam Hóa và đàm phán với Bắc
Việt. Tổng thống Nixon cho rằng cả hai sẽ đi song hành và hỗ trợ nhau. Nhưng
trong thực tế nó đã đi ngược với nhau: Nixon tin vào Việt Nam Hóa, Kissinger
không tin - lại còn thuyết phục Nixon tại sao ông không tin. Kissinger chỉ tập
trung vào mật đàm.
Nơi đây chúng
tôi chỉ nhắc lại một thí dụ về sự đối chọi này: ngày 17/09/1972 quân đội VNCH
lấy lại được Quảng Trị, tinh thần lãnh đạo Miền Nam lên cao - đó là thành công
của Việt Nam hóa.
Nhưng chỉ ba
tuần sau, tinh thần lại bị rúng động thật mạnh - vì thất bại của hòa đàm.
Tại sao thất
bại? Vì trong buổi họp với ông Lê Đức Thọ (8/10/1972) ông Kissinger đã nhượng
bộ điểm chính yếu của bốn năm mật đàm: Mỹ đơn phương rút quân nội trong hai
tháng, quân đội Bắc Việt được đóng lại Miền Nam - và đóng theo cách đốm da beo.
Những ngày cuối cùng
Trước bối
cảnh bị cúp viện trợ, năm khuyết điểm trên đã cùng một lúc tác động vào Miền
Nam trong những ngày tháng cuối cùng. Bắt đầu từ trận Phước Long.
Trận Phước
Long
Đêm ngày
13/12/1974, quân Bắc Việt nổ súng tại Phước Long. Lực lượng của VNCH chỉ gồm
Địa phương quân, Nghĩa quân, và 4 trung đội Pháo binh, tổng cộng khoảng 4,000
người. Dù phải đối đầu với lực lượng áp đảo của Bắc Việt gồm 2 sư đoàn (Sư đoàn
7 và 3 Bộ binh) cùng với các đơn vị pháo, xe tăng, đặc công, và phòng không gộp
lại là đông hơn lực lượng Miền Nam gấp sáu lần, lực lượng trú phòng vẫn chống
cự và kéo dài được trên ba tuần, tới 6/1/1975.
Giải pháp 'da
beo' đã giúp quân đội Miền Bắc có một lợi điểm chiến thuật thật lớn: đó là có
thể chọn nơi, chọn ngày và chọn giờ để tấn công. Khi tấn công thì có thể tập
trung quân để ở thế thượng phong.
Bản quyền hình ảnh Bettmann Image caption Y tá Mỹ chăm sóc thương binh trước khi phi cơ rời Tân Sơn Nhất |
Sao không tái
chiếm Phước Long?
Hội đồng An
ninh Quốc gia họp với Tướng Dư Quốc Đống, Tư lệnh Quân đoàn III để thẩm định
việc tái chiếm Phước Long. Cuộc họp đi tới kết luận là không khả thi vì (1)
không còn lực lượng trừ bị nào, không thể rút đơn vị nào từ vị trí khác; (2)
thiếu phương tiện chuyển quân và chuyển đại pháo.
Chưa bao giờ
Miền Nam lại cảm thấy bất lực như lúc này: không có quân trừ bị để tăng viện mà
nếu rút đơn vị này nọ để tăng viện thì cũng hết phương tiện để chuyển quân và
chở đến cho kịp thời.
Về thời gian
cần thiết để chuyển quân: muốn đưa Sư đoàn Dù từ miền Trung tới thì cần một
tuần, và muốn đưa một sư đoàn của Quân khu IV tới cũng mất ba ngày, mà Phước
Long cần ngay. Đúng như Đại tướng Viên đã trình Tổng thống Thiệu hồi Hè 1974:
"Trước
đây , trong cuộc tấn công 1972, Sư đoàn Dù có thể di chuyển từ Sài Gòn tới các
mặt trận ở Pleiku và Vùng I chỉ trong 48 tiếng bằng không vận mà không gây trở
ngại gì. Nhưng bây giờ, cùng một cuộc không vận tương tự , không quân cần đến 7
ngày và phải trưng dụng tất cả các phương tiện không vận khác."
Thời khắc sụp đổ
Ngày 6/01,
Phước Long thất thủ. Trong cuộc chiến kéo dài 20 năm, Phước Long là tỉnh đầu
tiên bị mất. Phước Long mở đầu cho cuộc tổng tấn công Mùa Xuân 1975 của quân
đội Bắc Việt. Có nhiều yếu tố đưa tới sụp đổ, nhưng trong tất cả những biến cố
theo sau Phước Long - Ban Mê Thuột, Pleiku, Huế, Đà Nẵng - đều có nguồn gốc từ
hai yếu tố chính: khuyết điểm của Việt Nam hóa và Quốc hội Mỹ cắt viện trợ.
Sụp đổ quá
nhanh vì tinh thần đã bắt đầu suy sụp từ tháng 8 năm 1974 khi tác giả của Việt
Nam hóa, TT Richard Nixon sụp đổ (8/8/1974) và chỉ ba ngày sau (11/8/1974) Quốc
hội Hoa Kỳ cắt quân viện cho VNCH: từ 2.1 tỷ (1972/1973) xuống 700 triệu USD,
mà trên thực tế chỉ còn khoảng 500 triệu. Điều chỉnh theo lạm phát phi mã thì
con số này thành ra vô nghĩa.
Bài học nào
từ Việt Nam hóa cho ngày nay?
Ngày nay nhìn
lại, trong bối cảnh địa chính trị mới ở Đông Nam Á, trong giới hạn của bài này,
chúng tôi chỉ đề cập tới một bài học thực tế nhất cho bất cứ nước nào muốn chơi
với Mỹ: đó là "tính cách bền vững" trong sự hỗ trợ từ Washington.
Đó là, từ các
khí cụ, khí tài và quân trang quân dụng khi được Mỹ chuyển giao (tặng hoặc bán)
cho tới tàu tuần dương, chiến hạm, máy bay vận tải, khu trục, tên lửa, radar tối
tân, bên nhận cần có tầm nhìn xa về vấn đề phụ tùng và bảo trì.
Nhắc lại giai
đoạn VNCH trên đà tan rã, chỉ riêng về phụ tùng, TT Thiệu đã ví von: "Tặng
tôi một cái xe Cadillac mà khi cần lại không có được một cái 'bougie' để thay
thế thì chiếc Cadillac chỉ là một đống sắt, lại còn phải canh giữ cho khỏi bị
mất trộm."
Vì hư hỏng và
thiếu phụ tùng, Không quân VNCH chỉ có thể sử dụng được từ 4 tới 8 chiếc trong
tổng số 32 phi cơ C-130 có sẵn. Hải quân thì phải giải tán 600 tàu tuần giang.
Bên cạnh đó,
dựa vào Hoa Kỳ về vũ khí, phụ tùng quân sự cần tính là làm sao phải có sẵn khi
cần: thời gian của thủ tục đặt hàng từ Mỹ và chuyên chở tới Việt Nam là 45
ngày: quá lâu khi khẩn cấp.
Còn về bảo
trì, thứ nhất, nếu quân cụ, quân trang là cũ thì vấn đề sửa chữa, bảo trì luôn
đặt ra, như trong chương trình Enhance Plus với VNCH; thứ hai, khí giới càng
tối tân thì càng phức tạp: cần đào tạo lâu để sử dụng và khung thời gian bảo
trì lại càng lâu.
Đây là những
vấn đề mà nước đồng minh hay đối tác với Hoa Kỳ cần quan tâm và trao đổi với
chính giới Mỹ ngay từ đầu.
Nếu chờ đến
khi lâm trận mới gọi Mỹ thì quá muộn.