VNTB - TT Phúc muốn kiến tạo một nền kinh tế phát triển bền vững, một nền hành
chính công hiệu quả và minh bạch thì ông có thể đi một con đường khác ông Tổng
Bí thư – Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng. Đó là tập trung cải tổ bộ máy nhà nước
thông qua sự mở rộng quyền tự do chính trị của người dân. Và khi ông làm được
điều này, thì lịch sử sẽ ghi nhận vai trò vị trí của ông lớn hơn cả “người đốt
lò”.
Dự báo kinh tế Việt Nam năm 2019 của ADB. |
Mới đây, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư đã ước tính tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP quý 1 năm 2019 là 6,58%,
thấp hơn phương án thấp mà kịch bản được đưa ra từ cuối năm 2018. Điều này cho
thấy, năm 2019 thực sự biến động hơn, và để vượt ra sự biến động này, cần phải
có tầm nhìn để vực dậy nội lực nền kinh tế, trong đó bao gồm cải cách thể chế
để thỏa mãn bốn yếu tố còn lại:
Hạ tầng, nguồn nhân
lực, kinh tế tư nhân
và cách mạng công nghiệp 4.0.
Theo Invest Asian, tăng trưởng trung bình 6% của Việt
Nam trong vài thập niên qua đã hỗ trợ duy trì sự ổn định và cân bằng của nền
kinh tế. Và sự gia tăng nhân khẩu học (dự kiến là tăng gần 20 triệu vào năm
2020) sẽ giúp thúc đẩy các ngành công nghiệp Việt Nam và sẽ tiếp tục khuyến
khích phát triển trong những năm tới. Tuy nhiên, sự gia tăng này gắn liền với
thu hút vốn FDI, và lực lượng nhân sự cho nhóm này chủ yếu là nhân công giá rẻ.
Bản chất của nền kinh tế Việt Nam tính đến thời điểm hiện nay vẫn chưa tiếp cận
được với sự tự chủ, mà chủ yếu là dựa vào FDI.
Trong một bài đăng tải trên website Chinhphu.vn đã dẫn
ý kiến chuyên gia, trong đó “đánh giá cao những nỗ lực cải cách vừa qua của
Chính phủ và tin rằng trong 5 tới 10 năm tới, hệ thống thể chế kinh tế của Việt
Nam sẽ hoàn chỉnh, trong bối cảnh CPTPP đã chính thức có hiệu lực.”.
CPTPP hay thậm chí là EVFTA thể hiện sự hội nhập của
nền kinh tế Việt Nam, tuy nhiên, về mặt bản chất, thì nó là sự tận dụng sự cởi
mở hàng rào thuế quan hơn là xem xét đó là cơ hội để đẩy mạnh cải cách thể chế,
mở rộng thị trường. Sẽ chẳng thể có một sự hậu đãi đáng suy ngẫm này xoay quanh
việc tự do hóa kinh tế nhưng lại tìm cách kiểm soát chặt chẽ chính trị. Ngay cả
bản thân cuộc chiến đốt lò chỉ thuần là một giai đoạn nhiệm kỳ hơn là một cam
kết mang tính bề sâu trong đẩy mạnh tính minh bạch và hiệu quả ở hệ thống nhà
nước. Chúng ta có thể nhìn thấy tương lai của nền kinh tế Việt Nam qua Trung
Quốc – quốc gia mà Việt Nam cóp nhặt không ít luận thuyết để “mở cửa, và hội
nhập”, và Trung Quốc – được ví như tấm gương thành công của cải cách kinh tế
nhưng siết chặt tự do chính trị. Tuy nhiên, thành quả kinh tế của Trung Quốc mà
Bắc Kinh từng tự hào lại đến từ chính việc tận dụng sự bảo hộ triệt để nền sản
xuất trong nước, nhân công giá rẻ, và sự sao chép công nghệ bất hợp pháp.
Cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung đã khiến nền kinh tế
Trung Quốc suy yếu, và làm lộ rõ tính chất thiếu bền vững của cường quốc hạng 2
này. Trong xu thế đó, Trung Quốc thay vì cam kết tiếp tục giữ chỉ số tăng
trưởng, thì nước này lại có bước đi khoa học hơn – cam kết tiếp tục mở cửa nền
kinh tế theo hướng tòan diện. Nhưng kể cả “cam kết” như thế, thì khi nào chính
trị Trung Quốc vẫn siết chặt, thì tất cả mọi chủ nghĩa kinh tế vẫn sẽ phục vụ
cho một nền kinh tế do nhà nước thống trị, nguyên tắc thị trường tự do vẫn sẽ
không hiện diện.
Việt Nam cũng đang đi theo con đường đó của Trung
Quốc, dựa vào FDI, nhân công giá rẻ, bảo hộ và sự sao chép công nghệ bất hợp
pháp. Mới đây nhất, Bloomberg dẫn nguồn tin từ nhà cung cấp dịch vụ an ninh
mạng FireEye Inc, cho biết, các hacker được hỗ trợ bởi Nhà nước đang nhắm vào
các công ty ô-tô nước ngoài, mục tiêu các cuộc tấn công nhằm hỗ trợ các mục
tiêu sản xuất xe. Và mặc dù, người phát ngôn ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng
cho biết, Chính phủ Việt Nam không cho phép bất kỳ hình thức tấn công mạng nào
chống lại các cá nhân hoặc tổ chức. Tuy nhiên, những gì mà giới lãnh đạo Việt
Nam kỳ vọng vào sự cất cánh của nền công nghiệp ô-tô không khiến cho dư luận
thôi hoài nghi.
Cũng liên quan đến vấn đề Trung Quốc, từng có nhiều dự
đoán rằng, sự thịnh vượng kinh tế sẽ thúc đẩy tự do chính trị. Và
sớm hay muộn, nền kinh tế Trung Quốc sẽ chậm lại, hay sự đi lên của nền kinh tế
dưới sự cai trị độc đoán sẽ không thể kéo dài. Và tại Trung
Quốc, không hề có sự tách biệt giữa quyền lực chính trị và hành chính công. Thế
nên, hiểu về bộ máy hành chính Trung Quốc, là phải hiểu về độ quan liêu của bộ
máy, và sự có mặt của những đặc điểm dân chủ tỏng bộ máy quan liêu mà Đặng Tiểu
Bình cố gắng đem vào cũng chỉ là duy trì cho một sự tăng trưởng mang tính giai
đoạn. Và tại Trung Quốc, cái thời kỳ mà phấn đấu đưa con số GDP trở nên đẹp đẽ,
thì các lãnh đạo cấp cao đổi mới nền kinh tế đã đưa vấn đề bảo vệ môi trường và
xóa đói giảm nghèo xuống hàng hai, trong khi mục tiêu tăng trưởng kinh tế lại
luôn phải đi đôi với duy trì ổn định chính trị.
Việt Nam thì sao, quan điểm gần đây nhất từ phía Chính
phủ vẫn hướng đến con số GDP đẹp, trong khi đó, những cột khói tại Nhiệt điện
Vĩnh Tân hay Formosa, những kế hoạch nhấn chìm khối vật chất (được hinh thành
từ sản xuất gang thép) xuống biển vẫn đang hiện diện, và khoảng cách giàu nghèo
vẫn đang gia tăng – như một báo cáo của WB vào tháng 4.2018.
Tiếp đó, cuộc chiến chống tham nhũng (đả hổ diệt ruồi
bên Trung Quốc hay đốt lò tại Việt Nam) có tác động như thế nào đối với tăng
trưởng và phát triển bền vững kinh tế?. Rõ ràng, nó có tác dụng thúc đẩy niềm
tin của xã hội, nhưng, cuộc chiến “đốt lò” trong bối cảnh siết chặt tự do chính
trị về lâu dài chỉ là “lấy mỡ nó rán nó”. Chính “đốt lò” làm tồi tệ hơn nguyên
tắc “phát triển kinh tế, siết chặt chính trị”. Lý do bởi, một
lãnh đạo quyết đoán và tham nhũng là hai mặt của cùng một đồng tiền. Và
Bạc Hy Lai, người bị Tập Cận Bình đưa ra tòa vì tội tham nhũng, từng là người
hiện thực hóa giấc mơ hạ tầng cơ sở, nhà xã hội ở Trung Khánh, biến vùng nước
phía tây của Trùng Khánh thành một trung tâm công nghiệp thịnh vượng. Và câu
chuyện của Bạc Hy Lai có thể hiện diện tại Tp. Đà Nẵng, với Nguyễn Bá Thanh hay
thậm chí là Nguyễn Nhân Chiến (Bắc Ninh).
“Đốt lò” không thể ngăn chặn tham nhũng gia tăng, mà
làm cho tham nhũng trở nên tinh vi hơn. Nó cũng không thể nào làm sạch bộ máy
quan liêu hơn nữa, nếu nó không có sự cải tổ từ bên trong.
Vậy “đốt lò” có giúp tăng trưởng kinh tế không?. Tương
tự như trên, nó chỉ phục hồi tạm thời niềm tin của một bộ phận người dân về sự
“trừng trị các quan chức quan liêu, tham nhũng”, và làm thỏa mãn sự tò mò lẫn
hả giận của người dân. Bởi tăng trưởng bền vững trong một nền kinh tế đòi hỏi
nhiều hơn là chỉ xây dựng các khu công nghiệp và xây dựng đường xá, hay thậm
chí là một quan chức cấp cao ra tòa, nó đòi hỏi những ý tưởng mới, công nghệ,
dịch vụ và những đổi mới tân tiến hơn. Các quan chức nhà nước có thể nghĩ ra,
nhưng sẽ không nhiều, tương tự như một Kim Ngọc thời kỳ bao cấp. Cái nhà nước
cần là thúc đẩy hay tạo điều kiện cho những ý tưởng như vậy được bộc lộ và phát
triển. Và để làm được điều này nhà nước buộc phải giải
phóng và hướng đến tiềm năng sáng tạo to lớn của xã hội dân sự, trên nền tảng
tự do ngôn luận hơn, hay sự tham gia cộng đồng nhiều hơn và ít can thiệp của
nhà nước hơn.
Nhưng những gì đang diễn ra tại Việt Nam lẫn Trung
Quốc vẫn là “siết chặt tự do chính trị” dưới lớp màn “ổn định
chính trị” trong khi ảo mộng về một nền kinh tế phát triển bền
vững và thịnh vượng.
Những quan điểm trên cho thấy, nếu TT Nguyễn Xuân Phúc
muốn kiến tạo một nền kinh tế phát triển bền vững, một nền hành chính công hiệu
quả và minh bạch thì ông có thể đi một con đường khác ông Tổng Bí thư – Chủ
tịch nước Nguyễn Phú Trọng. Đó là tập trung cải tổ bộ máy nhà nước thông qua sự
mở rộng quyền tự do chính trị của người dân. Và khi ông làm được điều này, thì
lịch sử sẽ ghi nhận vai trò vị trí của ông lớn hơn cả “người đốt lò”.
Chú thích:
Con đường hoạn lộ của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho
thấy, ông sẽ tiếp tục có vị trí chính trị cao hơn trong tương lai.