Hoàng Hải Vân: "Các nhà chính trị muốn “chơi” với người Sài Gòn thì nên khiêm tốn. Người
Sài Gòn không đao to búa lớn, họ dị ứng với các khẩu hiệu “Ra sức”, “Tăng
cường”, “Quyết tâm”, “Đẩy mạnh”, “Siết chặt”… Người Sài Gòn không thích ai dạy
dỗ người khác về đạo lý, về văn hóa, về lý tưởng. Người Sài Gòn không muốn làm
“đầu tàu”, không muốn trở thành “trung tâm”, không cần “cơ chế đặc biệt”, họ
chỉ cần tháo bỏ các rào cản, bãi bỏ các quy định phiền phức gây khó khăn cho
việc làm ăn sinh sống bình thường của mình."
Trong một lần làm việc với lãnh đạo TP.HCM trước đây, Thủ tướng Phan Văn
Khải đã thẳng thắn chỉ ra một sự thật mà chưa có vị lãnh đạo nào dám nói : Sự
phát triển của TP.HCM không phải là thành quả của sự lãnh đạo và quản lý của
Đảng bộ và Chính quyền mà là thành quả tự thân của chính nó. Tôi có dự cuộc làm
việc này, nên có thể diễn dịch ý của Thủ tướng Khải như sau : Thành tựu kinh tế
của Sài Gòn là hiệu số giữa sự phát triển tự thân mà lẽ ra nó phải có trừ đi
những tổn thất do sự quản lý mà chính quyền gây ra. Vì Sài Gòn vốn là thành phố
năng động có truyền thống kinh tế thị trường từ rất lâu đời, nếu không có sự
kiềm hãm của bộ máy quan liêu thì sự phát triển thịnh vượng của nó chắc chắn đã
vượt xa hiện tại.
Nói vậy không có nghĩa là không có chính quyền thì tốt hơn là có chính
quyền. Do chúng ta không thể không có chính quyền, nên chúng ta đành phải chấp
nhận một mức phát triển tương đối chậm chạp. Điều may mắn là hơn 30 năm đổi
mới, chính quyền đã từng bước bãi bỏ các quy định kiềm hãm sức sống của thành
phố. Và mỗi một bước phát triển của thành phố đều gắn liền với quá trình bãi bỏ
này. Có thể nói rằng “công lao” của chính quyền đối với sự phát triển thành phố
không phải là làm những việc tốt gì cho dân mà là bỏ dần những việc xấu. Rất
tiếc, sau những nhà lãnh đạo như Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải,
không một nhà lãnh đạo nào ở TP.HCM nhận thức được điều này.
Gần 400 năm trước, Sài Gòn được hình thành trong một bối cảnh đặc biệt của
lịch sử. Sau khi Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên gả con gái của mình là công chúa
Ngọc Vạn cho quốc vương Chân Lạp Chey Chettha II theo lời cầu hôn của vị quốc
vương này vào năm 1620, 3 năm sau, quốc vương Chân Lạp đã cho nhạc phụ mình
mượn 2 địa điểm là Kas Krobei và Brai Kor (đều thuộc Sài Gòn ngày nay), để lập
2 trạm thu thuế. Sau đó, triều đình Chân Lạp tặng luôn vùng đất này và lần lượt
cả vùng đất Nam bộ cho các Chúa Nguyễn để trả ơn cho các Chúa Nguyễn bảo vệ
triều đình Chân Lạp. Vùng đất này triều đình Chân Lạp chưa bao giờ cai quản
trong thực tế. Và trong thực tế, người Việt đã đến đây (cùng với số ít người
Khmer và người Hoa) sinh sống từ lâu trước khi Chúa Nguyễn đến tiếp quản.
Nêu chi tiết lịch sử đó để thấy, thoạt kỳ thủy các bậc "tiền
hiền" của người Sài Gòn không sống “dưới sự cai trị” của chính quyền mà
chính quyền ra đời là nhằm bảo vệ sự làm ăn sinh sống của họ. Sau các Chúa
Nguyễn, triều đình nhà Nguyễn đối với Sài Gòn và Nam bộ cũng trên tinh thần đó.
Thời Pháp thuộc, do Nam Kỳ là thuộc địa nên người dân nơi đây được hưởng các
quyền tự do dân chủ và hoạt động thương mại gần như người chính quốc. Thời
VNCH, dù đất nước trong tình trạng chiến tranh, Sài Gòn vẫn là Hòn ngọc viễn
đông và người Sài Gòn gắn cuộc sống của mình với kinh tế thị trường suốt hai
mươi năm. Lịch sử tạo nên tính cách của người Sài Gòn.
Người Sài Gòn dựa vào chính mình, nên họ sống khoan dung. Họ không cần
chính quyền làm điều tốt cho họ, nhưng họ bao giờ cũng biết ơn những ai trả lại
cho họ những gì vốn là của họ. Họ biết ơn ông Võ Văn Kiệt không phải vì ông
mang cơm áo gạo tiền gì đến cho họ mà đơn giản chỉ vì họ biết ông là người đầu
tiên quyết xóa ngăn sông cấm chợ để cho lương thực và hàng hóa được lưu thông.
Họ biết chứ, ngăn sông cấm chợ không phải do trời tạo ra mà là điều xấu do
chính quyền tạo ra, nhưng bỏ điều xấu đó đi là họ biết ơn rồi. Các nhà lãnh đạo
chớ có kiêu ngạo nhé, là người Sài Gòn khoan dung cho các vị đấy, chứ bỏ một
điều xấu do chính mình tạo ra thì ơn nghĩa gì !
Người Sài Gòn không cho mình tốt hơn, cũng không thấy mình xấu hơn người
các địa phương khác. Bởi vậy họ không kỳ thị, không dị ứng với đồng bào từ các
nơi khác đến sống ở Sài Gòn. Một thời gian dài có sự kỳ thị đối với đồng bào
“nhập cư”, đó là sự kỳ thị từ chính quyền chứ không phải từ người dân Sài gòn.
Người Sài Gòn chấp nhận mọi sự khác biệt.
Trong mọi chế độ chính trị, sự nghèo khổ và các tệ nạn truy cho cùng đều do
chính quyền gây ra. Cũng như các địa phương khác, Sài Gòn còn nhiều tệ nạn,
nhiều trộm cướp và không ít kẻ bất lương, nhưng người Sài Gòn không đổ lỗi cho
chính quyền. Họ luôn luôn sẵn sàng hậu thuẫn chính quyền trong thi hành công vụ
để giảm tệ nạn, giảm phiền nhiễu, nhưng họ rất ghét việc chính quyền giành
thành tích cho “hệ thống chính trị” còn tệ nạn thì đổ lỗi cho dân.
Các nhà chính trị muốn “chơi” với người Sài Gòn thì nên khiêm tốn. Người
Sài Gòn không đao to búa lớn, họ dị ứng với các khẩu hiệu “Ra sức”, “Tăng
cường”, “Quyết tâm”, “Đẩy mạnh”, “Siết chặt”… Người Sài Gòn không thích ai dạy
dỗ người khác về đạo lý, về văn hóa, về lý tưởng. Người Sài Gòn không muốn làm
“đầu tàu”, không muốn trở thành “trung tâm”, không cần “cơ chế đặc biệt”, họ
chỉ cần tháo bỏ các rào cản, bãi bỏ các quy định phiền phức gây khó khăn cho
việc làm ăn sinh sống bình thường của mình.
Dù chính quyền mang đến nhiều tai ương, tai ương lớn nhất là cuộc “đánh tư
sản” sau năm 1975 đã triệt tiêu sức sống hàng trăm năm của thành phố và để lại
những di hại hết sức nặng nề, nhưng người dân bỏ qua những lỗi lầm của chính
quyền trong quá khứ để hết lòng ủng hộ chế độ đã vì dân, vì sự hồi sinh của của
đất nước mà tiến hành công cuộc Đổi Mới. Người dân cần sự bình an để giữ thành
quả lao động của chính mình, họ không có ảo tưởng đổi đời.
Chuyện về người Sài Gòn cũng là chuyện của người Việt chúng ta.
HOÀNG HẢI VÂN