Tô Văn Trường
Phân tích các dữ kiện
lịch sử cho thấy bành trướng Đại Hán là tư tưởng xuyên suốt các triều đại từ thời
phong kiến đến Trung Hoa hiện đại ngày nay. VN là địa bàn cửa ngõ để triển khai
sự bành trướng xuống khu vực Đông Nam Á nhưng suốt hàng nghìn năm các triều đại
phong kiến tiến hành nhiều cuộc viễn chinh nhưng không chinh phục được, đó là lịch
sử vẻ vang tự hào của các triều đại phong kiến Việt Nam. Từ giai đoạn sau thắng
lợi cách mạng 1949 lập nên nhà nước CHNDTH dưới sự lãnh đạo của Đảng CSTQ, do
tác động của các lực lượng và xu thế chính trị quốc tế, chiến lược bành trướng
Trung Hoa có nhu cầu mạnh mẽ hơn, đồng thời có những thay đổi lớn về tư duy
cũng như chính sách triển khai thực hiện rất tinh vi uyển chuyển được xây dựng
trong ngắn hạn hay dài hạn tùy tình huống mà đối phương rất khó nhận biết, hoặc
nhận biết được thì đã muộn không kịp ứng phó tương tự “trận đồ bát quái” Khổng
Minh lập ra thời Tam Quốc.
Ở giai đoạn này, Việt
Nam lại càng đóng một vai trò quan trọng hơn trước đây do cả vị trí địa lý cũng
như vị thế chính trị. Nếu chi phối được Việt Nam theo ý đồ TQ thì chiến lược
bành trướng Trung Hoa xuống phía nam và làm chủ Biển Đông sẽ hiện thực được
nhanh chóng nhất. Đây cũng chính là sự lo ngại nhất của các nước Đông Nam Á và
lãnh đạo an ninh thế giới.
Cách đây hơn 5 năm,
tôi viết bài “Mê lộ tám hướng tấn công của TQ”, đến hôm nay nếu có bổ sung và cập
nhật thì hợp lý nhất đó là kiểm điểm lại trong các năm qua TQ đã tiến thêm như
thế nào một cách cụ thể trên cả 8 hướng đó. Còn ngoài 8 hướng phá VN ra, có thể
thấy thêm gì nữa không? Đó là TQ đã và tiếp tục chia rẽ ASEAN, mua chuộc, ép buộc
và đi đêm với các thế lực quốc tế nhằm cô lập VN về mọi mặt khiến tiếng nói của
VN trở nên lạc lõng và yếu ớt khi có biến cố bất lợi trên Biển Đông hoặc các
tranh chấp khác với TQ xảy ra.
Cũng nên "kiểm
toán" lại xem chính VN đã ngu ngơ hay vô tình tiếp tay thực hiện các mũi tấn
công đó trong thời gian qua ra sao. Có lẽ rõ ràng nhất là chính quyền đang đánh
mất lòng tin của người dân khi nhiều hoạt động yêu nước chống ngoại xâm lại bị
đàn áp, cố tình hiểu sai lệch, bóp méo và chụp cho cái mũ của con ngáo ộp Việt
Tân. Tám hướng cũng đã là quá đủ để TQ có thể hạ gục đối thủ nhỏ bé như VN. Hướng
thứ tám là hướng thâm độc và là hướng quyết định thành công của mọi hướng khác.
Gần đây, ngừời dân cả
nước quan tâm, phản đối luật 3 đặc khu kinh tế và dự án đường cao tốc Bắc Nam (do
một tập đoàn Trung Quốc đề xuất) vì thấy rõ bàn tay “lông lá” của Tầu và bài học
về dự án đường sắt trên cao Cát Linh-Hà Đông “tiền mất tật mang” đã nhãn tiền. "Dùng
người Việt để trị người Việt và đồng hóa người Việt ..." xưa nay nhiều kẻ
ngoại xâm đã làm, kể cả Tàu trước đây. Cuối cùng, hướng này vẫn cứ thất bại thảm
hại. Có lẽ vận nước mình còn lớn lắm.
Sách lược "lấy
bất biến ứng vạn biến" cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh "cứu nước khi nước
còn chưa nguy" mới là thượng sách. Chỉ cần chống lại hướng thứ tám bằng nội
lực vươn lên của chính mình, nỗ lực vượt lên chính mình để cải tổ thể chế và
hòa giải dân tộc thì hướng thứ tám của Tàu sẽ trở nên vô dụng. Đọc Tam Quốc,
trong lịch sử trận đồ bát quái do Khổng Minh sáng tạo ra chỉ có hai người có thể
phá nổi: Thứ nhất là Hoàng Thừa Ngạn (bố vợ Khổng Minh) và thứ hai là Khương Duy
(học trò và là người kế tục sự nghiệp của Khổng Minh). Tướng Ngô là Lục Tốn nếu
không có Hoàng Thừa Ngạn chỉ đường chắc chắn sẽ chết tại trận đồ Bát Quái này của
Khổng Minh. Từ lâu, các thế hệ cầm quyền bành trướng TQ đã bày trận Bát quái này
với người "đồng chí” VN. Ai sẽ là người VN có đủ tài năng, trí tuệ và bản
lãnh phá trận này đây?.
Người ta, thường hay
dùng hình ảnh của tảng băng nổi trên mặt biển để nói về phần NỔI (ý là phần
lộ diện : nhỏ) và phần CHÌM (ý là phần tiềm
tàng : lớn) – đó là theo lý thông thường, nhưng … ở
ta thì cái tảng băng (cũng hình chóp) đó lại … lộn
ngược lềnh bềnh nên rất khó đảo lại nhưng … lại rất dễ tan,
mau tan chảy! Cái hệ thống “lộn tùng phèo” này có vô số thứ để bàn theo kiểu … “hội đồng chuột” (bàn cách treo
chuông vào cổ mèo) nếu chưa đảo ngược lại được!
Trong phạm vi bài viết này, chúng ta cùng nhau điểm lại việc TQ dã tâm tấn
công một cách có hệ thống như “mê lộ” tám hướng vào nước ta .
Một
là .
Bằng mọi cách ngăn
chặn mọi cơ hội VN độc lập tiếp xúc với văn minh thế giới, luôn tạo ra sự phụ
thuộc vào TQ dưới chiêu bài “phe XHCN”. Ngay trong cuộc kháng chiến chống Pháp
đã dùng viện trợ quân sự và kinh tế để VN thắng Pháp ở mức loại bỏ ảnh hưởng của
Pháp, không để Mỹ tiếp xúc với VN mà dùng biện pháp hòa bình nửa vời chia đôi 2
miền Bắc–Nam VN thực chất là gây tình trạng dẫn đến đối đầu VNDCCH và Mỹ (không
chỉ 2 miền VN mà cả nước Mỹ cũng bị rơi vào “bẫy” này). Khi chiến tranh chống Mỹ
kết thúc (trong khi Mỹ đang lúng túng, TQ chiếm luôn Hoàng Sa). Việt Nam thống
nhất (thực chất không theo mong muốn của TQ) mặc dù Mỹ tích cực vận động bình
thường hóa quan hệ 2 nước giúp VN phát triển mong muốn của thế giới và Đông Nam
Á, nhưng TQ tiếp tục xúi giục (bẫy tiếp) VN thực hiện ý đồ/ tham vọng thiết lập
Liên Bang Đông Dương, tiếp theo là đem quân sang Campuchia thực chất là các bẫy
để thế giới nhận thấy VN rất hiếu chiến và mưu đồ bành trướng khó hợp tác! Đến
1979 gây chiến tranh biên giới nói là cho VN, nhưng thực chất là cho cả thế giới
bài học: “Chỉ TQ có thể dạy được VN mà thôi”, lãnh đạo CS VN không muốn sụp đổ
hãy đến Thành Đô.
Từ đó đến nay, VN cứ
từ bẫy này sang bẫy khác trong cái vòng luẩn quẩn hay “mê lộ” này, lãnh đạo VN
chưa dám dù chỉ nghĩ tới thoát bẫy, đó và chỉ là: độc lập tiếp thu văn minh
nhân loại, mà lịch sử VN đã ghi nhận người khởi xướng đúng đắn (nhà trí thức
Phan Châu Trinh) hơn 100 năm trước mà chưa thực hiện: “Khai dân trí, hậu dân túy, vị dân sinh” chứ không phải cố nứu và
phát triển các chương trình “câu giờ với lịch sử”: “đổi toàn vẹn lãnh thổ lấy
tình hữu nghị viển vông”! Ngoài các hướng của mê lộ sau đây, theo thời gian nếu
VN vẫn không có được tầng lớp tinh hoa, thì cái mê lộ này sẽ ngày càng phát triển
có khi còn ngoài mong đợi của nhà cầm quyền TQ.
Sáu tỉnh biên giới
phía bắc của nước ta bị TQ dùng mọi thủ đoạn chiếm đoạt “gặm nhấm”. Ngày nay, các
địa danh Mục Nam Quan, Thác Bản Giốc vv…chỉ còn là hoài niệm trong sách giáo khoa
và những câu ca dao của dân Việt. Chúng ta phải mất 6 năm điều đình, nhún nhường,
phân định để xây được hơn 1500 cọc mốc bê tông biên giới Việt Trung cao 10-15 m,
sâu trung bình 20 m nhưng vẫn chưa phải là bình yên vì đổ cho dân tại chỗ có
“quậy phá” chỉ vì cho rằng mồ mả của người dân TQ vẫn còn nằm trên lãnh thổ Việt
Nam!
Hai
là .
Dùng các thủ đoạn
mua chuộc các quan chức, lợi dụng “kẽ hở” của chủ trương đầu tư để thuê dài hạn đến
50 năm các khu vực trọng yếu về kinh tế và quốc phòng từ rừng núi, đến vùng ven
biển của đất nước. Hậu họa đã nhãn tiền chẳng cần chờ đến 50 năm sau để con
cháu lên án cha ông chết vì 99 năm tham và ngu dại!
Ba
là .
Phía Tây- Nam,
‘phiên dậu” của nước ta ở Campuchia và Lào nhiều vùng đất rộng lớn đã được TQ đầu
tư, mua bán. Trước đây, các du học sinh người Lào còn thích sang VN học tập
nhưng ngày nay địa điểm đến của họ là TQ vì học bổng cao gấp 30 lần so với VN,
lại còn được cho về phép vv…Sau tầng lớp cán bộ trung kiên gắn bó với VN già, mất
đi dễ hiểu “đòn xoay trục” của Tầu như thế nào với tầng lớp kế cận ở các nước
phía Tây Nam của nước ta.
Hướng thứ tư
Việt Nam là một trong
những quốc gia đang chịu nhiều tác động bởi thiên tai như: bão, lũ lụt, lũ ống,
lũ quét, xói lở bờ sông, bờ biển, sạt lở đất, úng ngập, hạn hán, xâm nhập mặn
và hoang mạc hóa (gần 100% là liên quan đến nước). Hằng năm, nước ta chịu nhiều
tác động bất lợi của thiên tai, làm thiệt hại về người và của vô cùng to lớn. Đặc
biệt trong những năm qua, thiên tai xảy ra ở khắp các khu vực trên cả nước, gây
ra nhiều tổn thất to lớn về người, tài sản, các cơ sở hạ tầng về kinh tế, văn
hoá, xã hội, tác động xấu đến môi trường. Trong 20 năm gần đây (1994 - 2013) ở
nước ta, thiên tai (chỉ tính riêng bão, lũ lụt, sạt lở đất và lũ quét) đã làm chết
và mất tích gần 13.000 người, giá trị thiệt hại về tài sản ước tính chiếm khoảng
1,5% GDP/năm (đó là chưa nói đến thiệt hại kinh tế, môi trường do ngập úng thường
xuyên ở các thành phố).
Hai nguồn nước chính
tác động đến VN là sông Hồng và sông Mekong đều bắt nguồn từ TQ. Quản lý nước
là phải quản lý lưu vực sông nhưng TQ xây dựng tràn lan các đập thủy điện ở thượng
nguồn bất chấp đến các hậu qủa phải hứng chịu của VN ở hạ lưu. Tệ hơn, họ còn
không cho ta biết quy trình vận hành các hồ chứa thủy điện phía thượng lưu, đây
là nguy cơ không nhỏ về “chiến tranh nguồn nước” trong tương lai.
Hướng thứ năm
Hàng hóa từ TQ tràn
ngập thị trường VN qua các con đường từ nhập khẩu, tiểu ngạch đến buôn lậu. Chất
lượng các sản phẩm qua những hàng hóa đã kiểm nghiệm hầu hết đều vượt mức báo động
cho phép, gây tổn hại sức khỏe của nhân dân ta. Người TQ đi khắp nơi thu mua
các sản phẩm không giống ai như lá điều khô, đỉa, móng trâu, hoa thanh long, lá
khoai non, thảo quả, cây culi, cây long khỉ vv…giá cao bất thường rồi đồng loạt
rút bỏ gây điêu đứng cho bà con nông dân thiếu thông tin, nhẹ dạ , gây bất ổn về
an ninh chính trị và trật tự xã hội ở các địa phương. Phần lớn các dự án đầu tư
cơ sở hạ tầng kể cả năng lượng, giao thông đều rơi vào tay TQ do bỏ giá thầu rẻ,
và giỏi “đi đêm”, nhưng lúc thực thi lại đưa công nghệ lạc hậu, thi công kéo
dài, dùng đủ phép để đội giá đầu tư so với được duyệt để lại hậu quả “tiền mất -
tật mang” cho VN.
Hướng thứ sáu
Xâm chiếm Hoàng sa của
VN, tự vẽ ra đường lưỡi bò 9 đoạn chiếm khoảng 90% diện tích Biển Đông bất chấp đạo
lý và luật pháp quốc tế. Sự kiện giàn khoan HD 981 càng lột tả bộ mặt thật về
thủ đoạn trắng trợn, dã tâm của TQ đối với VN. Kế hoạch tiếp tục đưa thêm các
giàn khoan khác đến Biển Đông chứng tỏ VN không còn đường lùi, phải kiện TQ ra
tòa án quốc tế. Mời xem bài “Phải kiện nhưng kiện cái gì, như thế nào, khi
nào?”và bài “Hôn nhân ý thức hệ món quà trớ trêu của số phận” (tác giả Tô Văn
Trường).
Hướng thứ bảy
Vịnh Hạ Long đã có đường
ranh giới Việt -Trung từ thời người Pháp ông Mac Mahon ký kết với nhà Mãn Thanh.
Nhưng thực tế, TQ cũng tìm cách lấn lướt sang ta đến khoảng 50 km2
và thường xuyên gây khó cho hoạt động của ngư dân VN vì họ người đông lại có tầu
to.
Hướng thứ tám
Đất nước muốn phát
triển cần có những người lãnh đạo có phẩm hạnh, trí tuệ và tài năng. Từ lâu, TQ đã
can thiệp vào công tác nhân sự của ta. Thủ đoạn truyền thống của TQ là “cấy mối
thân tình”, mua chuộc bằng mọi cách kể cả hù dọa người yếu bóng vía, tạo nên ân
tình từ cấp trung ương đến địa phương. Đối với nhân dân ta không thể mua chuộc được
thì họ tuyên truyền thất thiệt gây chia rẽ giữa lãnh đạo Nhà nước và nhân dân.
Ngày nay, có thể nói “tai mắt” của TQ len lỏi khắp nơi, tác động khôn lường đến cả
chính trị và KT-XH của VN.
Bốn là Mù mờ .
Trong bối cảnh mù mờ, Nhà nước
chỉ cho cán bộ và nhân dân biết một phần về những việc làm với tư cách đại diện
cho cả một dân tộc, đây là một sự bất công đã kéo dài từ nhiều năm nay. Thủ tướng
Phạm Văn Đồng đã viết những gì cho ông Chu Ân Lai về biển đảo, lãnh hải của Việt
Nam năm 1958, một điều mà chỉ những ai chú ý tìm hiểu lắm mới biết! Hội nghị
Thành Đô năm 1990 có những nội dung gì, ngoài những điều mà báo chí đã đưa? Nội
dung của việc trao khu khai thác bauxite cho TQ ở Tây Nguyên là gì, trong bao
nhiêu năm, nội dung của việc cho thuê rừng phòng hộ ở biên giới Việt-Trung là
thế nào? Rất nhiều người VN không được biết rõ, và khi đọc từng đoạn trong tin
tức từ báo chí "lề trái", người ta không còn biết tin vào đâu nữa!
Tại sao trước kia công an giải
tán các đoàn biểu tình chống TQ bành trướng tại các biển đảo của VN, bắt, giết
ngư dân, thậm chí còn theo dõi, bắt người VN vô tội chỉ vì đã có những biểu cảm
của lòng yêu nước, và gần đây lúc lại nới lỏng, lúc thắt chặt? Vậy thì phải đợi
TQ hung dữ hơn thì dân ta mới được phép phản đối chăng? Tại sao nhiều vị chóp
bu của VN hầu như không nói gì trước những sự việc trọng đại như TQ hạ dàn
khoan trái phép HD 981, hay những vụ lộn xộn ở Tiên Lãng, Văn Giang, Vụ Bản,
Thái Bình, Cần Thơ vv…?
Vĩ Thanh
Dân tộc đã có không
chỉ các ngoại xâm hiện thực mà ta đã chiến thắng, mà còn ngoại xâm và nội xâm
không lộ diện mà ta chưa thắng, nên dân tộc ta vẫn cứ nghèo so với thế giới. Nước
nhà đã độc lập nhưng toàn vẹn lãnh thổ thì chưa và nguy cơ ngày càng lớn. Mỗi
người dân, đặc biệt là trí thức nghĩ gì? Đến lúc này, mà người ta vẫn còn gọi
nhau là đồng chí. Thực chất chỉ còn là
đồng chí “bán phần”, hay là “bán phần đồng chí” như văn phạm Tàu vì chỉ có nửa
phần “vận mệnh tương quan” trong 16 chữ vàng là đồng. Chưa có lúc nào dân và chính quyền lại sống trong
ngờ vực như ngày nay vì Nhà nước không minh bạch với dân. Trước hết, BCHTƯ và các ĐBQH có quyền được biết các
ý kiến của từng thành viên BCTBBT về quan điểm và các đối sách đối với TQ. Phương ngôn có câu im hơi, lặng tiếng
là một đức hay. Nếu danh dự bắt buộc phải lên tiếng mà lặng im thì là một sự hèn nhát (La Cordaire).
Ta căm ghét thái độ dửng dưng chỉ
cần thêm một bước là dẫn tới phản bội và một bước nữa đã là tội ác trước lương
tâm (I.V. Bodarev).
Một lần Byron, thi hào Anh sau khi đứng
làm mẫu cho người bạn là nhà điêu khắc Torvansen tạc tượng chân dung của
mình, bỗng nhiên ông kêu lên : “không, bạn không tạc hình tôi mà
là hình hài của một anh chàng yên ổn nào đó! Tôi hoàn toàn không giống
bức tượng này !”. Torvansen hỏi lại : “thế, có gì là
xấu nếu ta sung sướng ?”. Khuôn mặt Byron vụt tái đi vì tức giận và ông la lớn : “Torvansen! hạnh
phúc và sự yên ổn cũng khác nhau như đá hoa cương và đất sét vậy . Chỉ
có những kẻ ngu và những người tâm hồn thấp kém mới tìm
kiếm sự yên ổn trong thế kỷ . Chẳng nhẽ trên mặt tôi không có nét nào
nói lên sự cay đắng, lòng can đảm và nỗi đau khổ của suy
tư ?
Theo Ts Phạm Gia
Minh, Đảng chỉ có được khi đất nước còn, mất nước thì Đảng như cá không có nước.
Thật đáng thương và đáng giận cho những ai lú lẫn, không ý thức được rằng, nước
trong đó họ bơi đang cạn dần và nóng lên nhanh chóng! Dù
cho kẻ bán nước có “thẻ xanh” nhưng dân nước Việt không bao giờ quên lời dạy của
Vua Lê Thánh Tông (1473) : ”Nếu các ngươi đem một thước
sông, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc thì phải tội tru di”.