Âu Dương Thệ
Nguyên Tổng Bí Thư Đỗ Mười vừa mất ở tuổi 101, hiếm
có! Làm người ai cũng phải chết, đó là luật tạo hóa. Nhưng khi sống và nắm quyền
thì Đỗ Mười làm gì, có làm lợi cho nhân dân và đất nước không, hay chỉ bo bo lo
cho đảng?
Suốt từ thập kỉ 70 của thế kỉ trước Đỗ Mười đã giữ nhiều chức vụ quan
trọng, từ Phó Thủ tướng, Thường trực Ban bí thư trung ương, Thủ tướng, Tổng bí
thư và làm Thái thượng hoàng chỉ huy Lê Khả Phiêu và Nông Đức Mạnh. Các "thành
tích" của ông là: Cúi đầu thần phục Bắc kinh tại Hội nghị Thành đô 1990, phá
tan hoang kinh tế tư nhân miền Nam và đày ải hàng triệu tư thương và gia đình
phải đi các vùng rừng thiêng nước độc làm "kinh tế mới", đòi phải để Doanh nghiệp
nhà nước làm chủ đạo toàn bộ huyết mạch kinh tế và giành ưu đãi cho các Tập
đoàn và Tổng công ti Nhà nước tự do bòn rút ngân sách quốc gia!
Tất cả những chủ trương này của Đỗ Mười là chỉ nhằm phục
vụ và bảo vệ độc quyền cho Đảng Cộng sản, trong đó đặc biệt là thành phần bảo thủ
cực kì giáo điều; bất kể những nguy hại cho nhân dân, tụt hậu của đất nước và
nguy cơ lệ thuộc phương Bắc. Những việc làm của Đỗ Mười trong suốt mấy thập
niên vừa qua chỉ có lợi cho nhóm độc tài giáo điều CS, nhưng hoàn toàn bất lợi
cho nhân dân và và nguy hiểm cho tổ quốc.Vì thế Đỗ Mười không xứng đáng để hưởng "quốc
tang". Để cho chính danh Nguyễn Phú Trọng không được lạm quyền, chỉ được phép tổ
chức "Đảng tang" cho Đỗ Mười!
Dưới đây là trích một phần viết về một số hoạt động của
Đỗ Mười trong tập sách của tác giả sẽ xuất bản:
"Tại sao sau 32
năm đổi mới" ĐCS đang bị biến thể thành các nhóm tham nhũng quyền lực và tiền bạc
và xâu xé nhau?
Viễn tượng chuyển
thành độc tài cá nhân như thế nào?
***
Đỗ Mười cực kì giáo điều và vô
kiến thức nắm ghế Tổng bí thư
Toàn bộ văn kiện Báo cáo Chính trị Đại hội (ĐH) 7 (6.1991)
phản ảnh trung thực cả trình độ nhận thức và khả năng ý thức trách nhiệm như thế
nào của nhóm cầm đầu toàn trị. Nó chứng minh rõ ràng về sự thiếu kiến thức căn
bản nên không thể có tầm nhìn cần thiết để hiểu được lòng dân và biết được trào
lưu quốc tế chính của thời đại. Vì thế họ lại bỏ lỡ một cơ hội tốt cả cho đảng
lẫn đất nước. Việc quay lại với quan điểm và lập trường cực kì bảo thủ chứa đựng
trong các văn kiện chính của ĐH 7 cho thấy, những cán bộ đảng viên muốn có đổi mới, dù chỉ là nửa vời, đã mất hậu thuẫn
trong đảng; các thành phần giáo điều bảo thủ nắm thượng phong trở lại.
Trong điều kiện đó Nguyễn Văn Linh, con người ba phải,
không còn chỗ đứng. Thứ nhất là lí do sức khỏe.
Đỗ Mười cho biết, trong suốt nhiệm kì 5 năm (1986-91) một nửa thời gian
ông Linh đã bị ốm đau, phần lớn thời gian ông làm việc ở ngay Sài gòn chứ không
ở trụ sở Trung ương đảng(TUĐ) ở Hà nội như các Tổng bí thư (TBT) từ trước tới
nay. Nhiều khi các cuộc họp của Bộ chính
trị (BCT) cũng được tổ chức ở Sài gòn, nhiều cuộc tiếp khách quốc tế của ông
Linh cũng diễn ra ở đây. Thậm chí nhiều chuyến đi nước ngoài ông Linh đã cho
chuyên cơ cất cánh và hạ cánh tại phi trường Tân sơn nhất. Trong những dịp như
thế các ủy viên BCT và Ban bí thư (BBT) không thể thường xuyên và đông đủ tới
chào và tiễn người cầm đầu chế độ. Điều này trái với thông lệ và gây khó khăn
không chỉ trong làm việc, mà còn cả trong dư luận. Vì thế báo đài trong thời
gian này đã cố tình đưa tin tiễn-đón Nguyễn Văn Linh hoàn toàn sai. Việc này
chính tờ Đoàn kết, tờ báo của "Hội Việt kiều yêu nước” của Hà nội ở Pháp, cũng
đã xác nhận. [1]
Ngoài trở ngại sức khỏe, tính tình thiếu cương quyết và bất
định của Nguyễn Văn Linh cũng không tạo lợi thế cho ông trong giai đoạn đảng
đang rơi vào hoàn cảnh sợi chỉ treo ngàn cân như từ cuối thập niên 80. Đây là
thời gian dụng võ của những người bảo thủ kiên định. Vì thế vào giai đoạn cuối
nhiệm kì của Nguyễn Văn Linh, vai trò của Đỗ Mười ngày càng nổi bật, như trình
bày ở trên. Tuy đối với bên ngoài cho tới những ngày chót trước khi khai mạc ĐH
7, Nguyễn Văn Linh vẫn là người đứng đầu. Mãi tới ngày thứ 2 của ĐH trên trang nhất tờ Nhân dân đăng hai ảnh lớn
song song của Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười đang gặp các đại biểu dự ĐH 7.[2]Điều này là chỉ dấu về sự thay nhân sự ở cấp cao nhất.
Mãi ngày thứ ba (26.6) 1176 đại biểu về dự ĐH mới bầu 146
ủy viên TUĐ (không có ủy viên dự khuyết) và sau đó Ban chấp hành trung ương
(BCHTU) mới bầu BCT và BBT.[3] Nhưng báo và đài
chưa được lệnh đưa tin kết quả. Mãi tới buổi chiều ngày cuối 27.6 dưới sự chủ tọa
của Lê Đức Anh mới công bố TBT, BCT và BBT mới. Trong diễn văn bế mạc tân TBT Đỗ
Mười (1917) mới thông báo, Nguyễn Văn Linh (1915) và Võ Chí Công (1912) đã
không ứng cử vì "tuổi cao, sức yếu” và làm "Cố vấn BCHTU” cùng với Phạm Văn Đồng.
Buổi sáng cùng ngày Đào Duy Tùng đã đọc kết quả các văn kiện chính đã thông qua
tại ĐH 7, như "Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội(CNXH)”;
trong đó "97% số đại biểu đã nhất trí ruộng đất thuộc quyền sở hữu toàn dân” và "89,7%" số đại biểu nhất trí "Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí minh (HCM)
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”.[4] Các kết quả bỏ phiếu như thế đã nói rất rõ tư duy và
trình độ của ĐH như thế nào. Ngoài Đỗ Mười, Lê Đức Anh và Đào Duy Tùng là những
người nổi trội trong các ngày họp ĐH. Võ Văn Kiệt không đóng vai trò chính.
BCT khóa 7 gồm 13 người, đứng đầu Đỗ Mười. Những
người chính đã trên hoặc xấp xỉ 70 (tuổi chính thức): Đỗ Mười (1917), Lê Đức
Anh (1920), Võ Văn Kiệt (1922), Đào Duy Tùng (1924), Đoàn Khuê (1923). Người trẻ
nhất và lần đầu tiên được vào BCT là Nông Đức Mạnh cũng vừa 51 tuổi (1940). Như
vậy cho thấy nhân sự chính Khóa 7 chỉ đóng vai giao thời. Điều rất đáng chú ý
là cách đưa tin rất tùy tiện về tiểu sử của tân TBT Đỗ Mười. Trong đó các hoạt động và chức vụ của ông được ghi chi
tiết cho tới ĐH 3 (1960); nhưng từ ĐH 4 (1976) chỉ
ghi rất tóm lược, hoàn toàn không nhắc tới các chức vụ như "Trưởng ban Cải tạo
Công thương nghiệp Xã hội chủ nghĩa (XHCN), phụ trách vấn đề cải tạo Công
thương nghiệp XHCN tại miền Nam"[5]Có phải như vậy là cố tránh những dư luận rất
ác cảm với Đỗ Mười. Trong hơn hai thập niên làm Phó thủ tướng phụ trách các
lãnh vực kinh tế, nếu không phải là thủ phạm, thì ít ra ông là người chỉ đạo trực
tiếp các mô hình kinh tế cứng nhắc XHCN các thập niên 60 ở miền Bắc và từ 1975
trên toàn quốc và đã đưa tới những hậu quả vô cùng khốc hại cho dân và nước!...
Hội nghị Đại biểu toàn quốc
1.1994:
Phe giáo điều được tăng cường cả
trong BCT lẫn BBT
Chỉ một năm sau ĐH 7 đã có hai thay đổi nhân sự quan trọng
trong BBT. Tại Hội nghị trung ương (HNTU) 3 (6.92) Ủy viên BCT Nguyễn Đức Bình kiêm nhiệm Bí thư
TU và Thượng tướng Lê Khả Phiêu cũng được bầu bổ túc vào Ban này, một cơ quan
triển khai hàng ngày các quyết định của BCT. Việc đề cử hai nhân vật này cho thấy
một số chiều hướng, cả hai người này đều thuộc khuynh hướng giáo điều bảo thủ ở
TU. Trong khi Nguyễn Đức Bình được coi là thân tín của Đỗ Mười thì ông Phiêu đã
từng nhiều năm dưới quyền trực tiếp của tướng Lê Đức Anh khi ông cầm đầu quân đội
VN chiếm đóng Campuchia. Đặc biệt nay ông Bình phụ trách công tác tư tưởng-văn
hóa, tức là chiến lược gia trong BCT; có chân cả trong hai cơ quan cao nhất lo
hoạch định, quyết định và thi hành các
chính sách của Đảng về lãnh vực tư tưởng, cho thấy vai trò của ông đang lên và
thế của phe bảo thủ trong hai cơ quan này lại càng mạnh thêm. Đáng lưu ý nữa là
Nguyễn Đức Bình không ưa Võ Văn Kiệt. Ông từng được BCT giao chức "cố vấn" cho
Võ Văn Kiệt trong chuyến đi Âu châu của ông Kiệt vào cuối tháng 6.1993, tức là
kiểm soát các tuyên bố của ông Kiệt.[6] Ít năm sau Nguyễn Đức Bình đã từng ám chỉ Võ Văn Kiệt
thuộc thành phần "cơ hội chính trị" tìm cách gây uy thế ở miền Nam.[7]
Chiều hướng gia tăng ảnh hưởng của cánh giáo điều càng
gia tăng với cao điểm là Hội nghị Đại biểu Toàn quốc vào cuối tháng 1.1994. Tại
HNTU 6 "kéo dài" (17-18.1.1994) để chuẩn bị cho Hội nghị Đại biểu toàn quốc có 4
người được bầu bổ túc vào BCT là Lê Khả Phiêu, Nguyễn Mạnh Cầm (bộ trưởng Ngoại
giao), Đỗ Quang Thắng và Nguyễn Hà Phan. Trong đó ba người đang có chân trong
BBT là các ông Phiêu, Thắng (Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra TU) và Phan (Trưởng ban
Kinh tế TU kiêm Phó chủ tịch Quốc hội(QH) ). Trong số này Nguyễn Hà Phan cũng
thuộc thành phần bảo thủ. Ngược lại, Hội nghị đã cách chức Vũ Ngọc Hải ra khỏi
TUĐ và Bộ trưởng Năng lượng với lí do dính líu vào vụ tham nhũng trong công
trình "đường dây 500kV", một công trình trọng điểm của Võ Văn Kiệt để chuyển điện
từ Thủy điện Hòa bình từ miền Bắc vào miền Nam.
Ông Hải (sinh năm 1931) là kĩ sư điện, Ủy viên trung ương (UVTU) dự khuyết
từ khóa 5 và UVTU chính thức từ khóa 6, là người tin cậy của Võ Văn Kiệt, từ
nhiều năm làm bộ trưởng Năng lượng và từ 1987 được ông Kiệt giao cho phụ trách
các công tác này và bị cách chức từ 9.92 và bị tù 3 năm. Nhưng sau một năm
trong nhà tù thì được thả. Trong thời gian ở tù Thủ tướng (TT) Võ Văn Kiệt, Phó
TT Phan Văn Khải và nhiều bộ trưởng đã lại trại giam thăm ông; một việc chưa từng
thấy dưới chế độ CSVN. Sau khi được tha Vũ Ngọc Hải lại được Võ Văn Kiệt cử làm "Đặc
phái viên của TT". Đây là một trường hợp hiếm có, nó nói lên sự phản đối của Võ
Văn Kiệt đối với các đồng liêu trong BCT.[8]
Nhân sự cấp
cao thay đổi theo thế thượng phong cho phe bảo thủ, điều này tạo dấu ấn rất rõ
trong các đường lối lớn tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc được tổ chức từ
20-25.1.1994, chỉ trước Tết Giáp Tuất ít ngày. Đây cũng là Hội nghị Đại biểu
toàn quốc lần đầu tiên của ĐCSVN từ khi được thành lập 1930 với 647 đại biểu
tham dự. Trong số 4 nhân vật chính là cái đinh của Hội nghị là TBT Đỗ Mười, CTN
Lê Đức Anh, TT Võ Văn Kiệt và Thường trực BBT Đào Duy Tùng. Trong số này ông Kiệt
chỉ là thiểu số.
Hội nghị này đóng một vai trò rất quan trọng, nhằm thẩm
định lại tình hình trong đảng và xã hội sau 5 năm "đổi mới" thời Nguyễn Văn
Linh, đồng thời nhận định tình hình thế giới sau khi Liên xô và các nước CS
Đông Âu tan rã và bình thường hóa quan hệ với TQ. Từ đó đề ra các mục tiêu,
đường lối và đề án nhân sự trong thời gian tới. Hội nghị đã nêu ra cảnh báo về "bốn nguy cơ” về
chính trị, kinh tế, an ninh và xã hội. Đó là "nguy cơ chệch hướng XHCN”, "nguy cơ tụt hậu xa về kinh
tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới”, "âm mưu và hành động "diễn
biến hòa bình” của các thế lực thù địch” và «nạn tham nhũng và các tệ nạn xã
hội khác”. Sau này khi nói tới Hội nghị Đại biểu toàn quốc người ta
thường gọi là "Hội
nghị về bốn nguy cơ”. Nhưng thực sự phe giáo điều chỉ lo ngại về hai
nguy cơ là "nguy cơ chệch hướng XHCN” và nguy cơ về "diễn biến hòa bình”. Trong khi đó thành phần cấp tiến trong Đảng
và dư luận xã hội lại quan tâm tới hai nguy cơ cho VN, đó là "tụt hậu về kinh
tế” và "nạn tham nhũng" bùng nổ. Những
khác biệt này dẫn tới những tranh cãi gay gắt ở trong Trung ương và dư luận
trong các năm sau này. Vấn đề quan trọng này sẽ được đề cập tới ở phần sau.
Trong Báo cáo Chính trị (BCCT) của Hội nghị này do TBT Đỗ
Mười đọc trong buổi khai mạc sáng 20.1.1994[9] đã cho biết, lập trở lại các Ban cán sự đảng và đảng
đoàn ở các cơ quan Nhà nước và các đoàn thể. Đây là cách gia tăng vai trò kiểm
soát của đảng trong các cơ quan chính quyền, QH và các tổ chức xã hội. Lí do
được giải thích là, "Trong sáng tác và lí luận, phê bình đã nẩy sinh một số
khuynh hướng lệch lạc như phủ nhận thành tựu cách mạng và văn hóa, tách văn
nghệ khỏi đường lối chính trị của Đảng, khuynh hướng thương mại hóa, truyền bá
văn hóa lai căng, lối sống sa đọa.”[10] Lời lẽ vừa đe dọa vừa xuyên tạc này là nhằm tấn công vào
những đòi hỏi của nhiều đảng viên tiến bộ và nhiều chuyên viên và người cầm bút
khi ấy đang công khai chỉ trích những sai lầm của ban lãnh đạo mới. Tiêu biểu
như Trung tướng Trần Độ, GS Hoàng Minh Chính, GS Phan Đình Diệu, Hồng Hà, Hà Sĩ
Phu (TS Nguyễn Xuân Tụ)…
Ngày 25.1.94 trong ngày cuối, Đào Duy Tùng, một ngôi sao
chính trị mới rất giáo điều, đã thay mặt
Đoàn Chủ tịch trình bày và giải thích một số vấn đề chính đã được Hội nghị thảo
luận.[11] Nửa năm sau BBT đã cho mở "Lớp giáo viên Mác - Lê-nin lớn nhất từ trước
tới nay" với 1460 cán bộ để học tập và quán triệt các Nghị quyết của
Hội nghị Đại biểu toàn quốc và TBT Đỗ Mười đã đọc diễn văn chỉ đạo.[12]
Báo cáo Chính trị trước Hội nghị Đại biểu toàn quốc đã liệt
kê những thành tích kinh tế từ ĐH 7; như giảm lạm phát từ 67% (1991) xuống chỉ
còn 5,2% (93); sản lượng lương thực 1993
xấp xỉ 25 triệu tấn đã "vượt mức đề ra cho năm 1995”; sản xuất công nghiệp cũng tăng bình quân
13%/năm, "vượt mức đề ra cho năm 1995"; tăng trưởng công nghiệp 13% (kế hoạch
8-10%), kim ngạch xuất khẩu cũng tăng 20%/năm và vốn đăng kí đầu tư của nước
ngoài ở VN lên tới 7,5 tỉ USD. Nếu các con số trên chính xác thì mức tăng trưởng
cao trong nhiều lãnh vực kinh tế có thể giải thích theo nhiều cách: Một nền
kinh tế đã phải trải qua thời gian tăng trưởng âm trong nhiều năm thì khi tăng
trưởng dương thường cao; đây là kết quả của chính sách chấm dứt các biện pháp
kiềm chế sản xuất ở trong nước và chính sách phong tỏa của Tây phương giai đoạn
trước đây.
Như thế phải nói là, chính nhiều chính sách phi XHCN đã
giúp kinh tế phát triển nhanh. Có nghĩa là, sự tăng trưởng kinh tế của VN hoàn
toàn có thể diễn ra ở mức cao ngay từ sau 1975, nếu mô hình Kinh tế Thị trường
được triển khai, thay vì mô hình CNXH. Nhưng điều này đã không diễn ra, vì từ
sau 1975 các chính sách từ nông nghiệp, công nghiệp trới thương nghiệp đều theo
mô hình XHCN xơ cứng. Trong đó chính Đỗ Mười là một trong những người chính phải
chịu trách nhiệm. Chẳng những không dám
nhìn nhận những sai lầm căn bản này, trong Báo cáo Chính trị lại ca tụng các
thành quả này là sáng tạo của Đảng và đặc biệt trong đó nhờ giữ sự độc tôn tiếp
tục cho Đảng:
"Đổi mới là sự nghiệp khó khăn, chưa
có tiền lệ, nhưng chúng ta đã mạnh dạn tìm tòi, dũng cảm tiến hành và giành thắng
lợi rất quan trọng. Nguyên nhân cơ bản nhất, quyết định nhất là Đảng ta đã giữ
vững vai trò lãnh đạo, không chấp nhận đa nguyên đa đảng.”[13]
Thổi lên lạc quan này để họ biện minh phải trở lại mô
hình đặt trọng tâm trong phát triển công nghiệp. Vì thế trong Báo cáo Chính trị
nhóm lãnh đạo đưa ra chủ trương đầy tham vọng là, "thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa…đây là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng
hàng đầu trong thời gian tới”.Tuy nhiên dịp này Đỗ Mười đã tìm cách
đánh tan những nghi ngại còn lởn vởn trong đảng và ngoài xã hội thời sau 1975
cũng từng chủ trương "tiến nhanh tiến mạnh lên CNXH" với đặt trọng tâm
phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp nặng, để tới năm 2000 VN sẽ trở
thành một nước công nghiệp[14]. Chính khi ấy Đỗ Mười đã được giao thực hiện công tác
này, nhưng chỉ ít năm sau tình hình ngành công nghiệp đã trở thành ác mộng. Có
lẽ vì thế nên trong Báo cáo Chính trị lần này Đỗ Mười đã trấn an "đương nhiên chúng
ta tiến hành công nghiệp hóa không theo kiểu cũ, không lập lại sai lầm nóng vội..”
Nhưng đó chỉ là cách đáng lừa dư luận, dối trá với nhân
dân. Vì cũng trong Báo cáo Chính trị Đỗ Mười lại chủ trương, trong thời gian tới
phải "cấp bách” tăng cường vai trò của Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) để nó "đảm nhận vai trò
chủ đạo”:
"Tiếp tục chấn chỉnh và xây dựng khu vực DNNN hoạt động có hiệu quả, đảm nhận
được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế là một việc hết sức quan trọng và cấp
bách. Vai trò đó thể hiện ở chỗ mở đường và hỗ trợ cho các thành phần khác phát
triển, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và lâu bền của nền kinh tế, là một công cụ
có sức mạnh vật chất để Nhà nước điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thị trường
theo định hướng XHCN.”
Như trên đã trình bày, sự thay đổi nhân sự ở các cấp cao
nhất thuận lợi cho cánh giáo điều, nên họ đã tạo những dấu ấn ngay trong các đường
lối chính tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc. Các lí luận để DNNN làm chủ đạo và
nó sẽ làm cho toàn bộ kinh tế tiến nhanh lên chỉ là lập lại một cách máy móc mô
hình phát triển kinh tế XHCN xơ cứng từ thời Stalin ở cựu Liên xô và Mao ở
Trung quốc giai đoạn nhẩy vọt. Nhưng đối với những người CSVN giáo điều thì phải
công nghiệp hóa nhanh với quốc doanh làm "chủ đạo” thì mới là tiêu biểu và đúng
với chủ nghĩa Marx-Lenin.
Quyết định giao cho các DNNN "đảm nhận vai trò chủ đạo"
trong kinh tế của Đỗ Mười mang tính cách cực kì quan trọng. Từ sau khi đưa ra
khẩu hiệu đổi mới từ ĐH 6 đây là lần đầu tiên đã công khai trở lại để DNNN giữ
vai "chủ đạo", tức là nắm quyền sinh sát trong mọi sinh hoạt kinh tế. Đây là
cách phục hồi mô hình phát triển kinh tế theo XHCN, trong đó phát triển công
nghiệp là trọng tâm. Chủ trương này đã được thực hiện từ ĐH 4 sau khi đất nước
thống nhất và nhóm lãnh đạo khi đó quyết áp dụng mô hình phát triển XHCN theo
kiểu Liên xô để đưa VN tiến nhanh, tiến mạnh. Khi đó trong vai trò Phó TT chính
Đỗ Mười là người chỉ huy và đôn đốc chủ trương này.[15]
Điều này còn có nghĩa là, từ Hội nghị Đại biểu toàn quốc tháng 1.1994 phe giáo
điều đã toàn thắng trong BCT cho nên họ đã từ bỏ chủ trương nửa nạc nửa mỡ
trong kinh tế của ĐH 6.
Quyết định này của Đỗ Mười sẽ có những tác động trực tiếp
và lâu dài không chỉ trong kinh tế mà toàn bộ các lãnh vực khác trong xã hội
các thập niên tiếp theo. Nó cho thấy, bằng mọi giá nhóm lãnh đạo giáo điều, đứng
đầu là Đỗ Mười, một người trình độ học vấn và kiến thức rất thô cạn chỉ muốn chủ
quan thực hiện niềm tin riêng của mình bất chấp sự thực và tinh thần khoa học,
quyết giữ độc quyền cho đảng!
Đúng ra nếu thông minh và khách quan, biết rút kinh nghiệm
thất bại kinh tế của nhiều nước CS, nếu muốn đạt mục tiêu nước giầu dân mạnh
thì phải đặt sự phát triển kinh tế VN theo các qui luật của kinh tế thị trường;
trong đó qui luật cạnh tranh, vai trò của tư nhân, công nhận quyền tư hữu và một
nền pháp luật công minh phải là nồng cốt.
Nhưng Đỗ Mười trong thực tế, với các chủ trương để DNNN làm chủ đạo và nắm các
huyết mạch chính trong kinh tế thì đúng lại vẫn như con ngựa theo đường cũ!
Quan điểm bảo thủ trở về với mô hình phát triển XHCN như
Đỗ Mười nói trong Báo cáo Chính trị tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc cũng được Đặng
Xuân Kỳ, con trưởng của cựu TBT Trường Chinh và một trong hai lí thuyết gia của
đảng, ủng hộ. Để đề cao thành quả phát triển kinh tế dưới sự lãnh đạo của Đảng
qua đổi mới ông ta đã không ngại ngùng tô hồng chế độ, nhưng xuyên tạc và tô
đen tình hình ở nhiều nước cựu CS Đông Âu vừa chuyển sang dân chủ đa nguyên:
"Ở các nước mà chế độ XHCN đã bị lật đổ [Đông Âu], khi cuộc cuồng phong
chính trị đã đi qua và chỉ còn để lại những đổ vỡ ngổn ngang và những rối loạn
triền miên, những tâm trạng hoang mang dao động xen lẫn bi quan thất vọng, thì
VN vẫn đứng vững và vượt lên phía trước. Cái gì là cốt lõi để VN làm được điều
đó, để cả thế giới ngạc nhiên và vui mừng? Đó là bản lĩnh chính trị vững vàng của
Đảng ta…chính là chủ nghĩa Mác-Lê và tư tưởng HCM”.[16]
Vào ngày cuối của Hội nghị Đại biểu toàn quốc đã bầu bổ
xung 20 Ủy viên tung ương(UVTU) mới với lí do, một số UVTU đã xin rút lui vì "lí
do sức khỏe”, nhưng không thấy nêu tên những người rút lui khỏi UVTU. Trong số
những người mới được bầu có một số người đóng vai trò quan trọng về sau này,
như Nguyễn Phú Trọng (Tổng biên tập Tạp chí CS), Phan Diễn (Chánh văn phòng
TUĐ) , Hồ đức Việt, Đào Trọng Lịch.[17]…
Trình độ hiểu biết và thế giới
quan của Đỗ Mười
Nhìn một cách tổng thể, có thể thấy rằng, từ ĐH 7 và nhất
là từ Hội nghị Đại biểu toàn quốc khuynh hướng giáo điều bảo thủ đã hoàn toàn nắm
thượng phong so với ĐH 6. Nói một cách khác, nếu ĐH 6 đổi mới chỉ nửa vời thì
nay đã hoàn toàn tắt lịm! Cho nên nguyên tắc đảng lãnh đạo tuyệt đối, nhất là
trong lãnh vực tư tưởng, càng được tăng cường hơn và cả trong cách thi hành tỏ
ra xảo quyệt hơn. Các biện pháp kiểm soát tư tửơng các chuyên viên và những người
cầm bút của những người cầm đầu chế độ tỏ ra gian xảo hơn, nhưng cũng thô bạo
hơn. Cơ chế xin-cho đã đựơc áp dụng bằng cách ban phát các chức vị, học hàm viện
trưởng, giám đốc, giáo sư, tiến sĩ cho các đảng viên thân tín trong các viện
nghiên cứu và đại học. Xuyên qua các phần tử này những ngân sách lớn hàng tỉ đồng
cho các công trình nghiên cứu được gọi là»khoa học», nhưng kì thực chỉ là để
tìm ra cách minh họa lãnh đạo và bảo vệ chế độ. Trong số này có cả những đề tài
nghiên cứu»cấp Nhà nước» về tư tưởng HCM, như đã trình bày.
Tháng 5. 1997 tại "Hội nghị triển khai các chương trình và đề tài khoa học xã hội
cấp Nhà nước giai đoạn 1996-2000", trong tư cách là TBT, Đỗ Mười, một
người chưa học hết trình độ tiểu học, đã
ra lệnh cho những nhà khoa bảng "trí thức XHCN" , trong đó có các viện trửơng,
giám đốc và giáo sư các đại học và viện nghiên cứu phải chứng minh "con đường
XHCN" là "cơ sở khoa học", tức là đưa ra kết luận trước khi có chứng minh!:
"Những người làm công tác lí luận cần phát triển
lí luận cách mạng VN lên một bước mới, chứng minh được con đường XHCN chúng ta
đi là cơ sở khoa học và nhất định sẽ thắng lợi."[18]
Chính sách ban phát địa vị, học hàm và bỏ tiền bạc rộng
rãi vào các chương trình nghiên cứu còn là cách mua chuộc để nắm lấy các giới
chuyên viên và trí thức. Một thành phần từ khi có "đổi mới" ngày càng muốn cách
xa đảng. Chính nguy cơ này nên vài năm sau Nguyễn Khoa Điềm, ủy viên BCT và Trửơng
ban Tư tưởng văn hóa trung ương, đã phải báo động:
"Nếu Đảng không lãnh đạo được trí thức thì trí
thức sẽ nằm trong tay người khác. Công tác khoa giáo nắm bộ phận trí thức khoa
học, bao gồm khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ, khoa học xã hội và nhân
văn. Nếu chúng ta nắm được lực lượng này thì sẽ là chỗ dựa trong quá trình xây
dựng CNXH. Còn nếu chúng ta để họ rơi vào tay người khác chi phối thì bài học
thất bại của Liên xô khiến chúng ta phải suy nghĩ."[19]
Thái độ ngạo mạn, khinh miệt chuyên viên và trí thức và
tinh thần phản khoa học của những người cầm đầu chế độ toàn trị hiện nay cũng vẫn
giống hệt như nhóm cầm đầu đảng sau chiến thắng chống Pháp và cai trị miền Bắc
1954. GS Trần Văn Giàu, một nhà khoa bảng hàng đầu của chể độ đã kể rằng, có lần
một trong những lãnh đạo chính khi đó đã trả lời cho các "trí thức XHCN" về triết
học như sau:
"Làm
triết học khó gì, các anh cứ xách cặp theo tôi, tôi đi đến đâu, tôi nói cái gì
thì các anh cứ nghe, đó là triết học."[20]
Riêng với Đỗ Mười, một người không có học vấn nhưng chỉ
biết trung thành, suốt mấy thập kỉ đã nắm nhiều trọng trách cuối cùng leo lên
làm TBT. Nhưng chưa bao giờ ông nhận ra sai lầm, hoặc xin lỗi công khai về
những biện pháp làm cho kinh tế quốc doanh bị phá sản và kinh tế tư nhân bị hủy
giệt. Cho tới khi làm TBT ông vẫn tin vào mô hình phát triển của CNXH. Tại sao?
Thông thường một người có trình độ văn hóa thấp thường hay cả tin và một khi đã
tin thì như đinh đóng cột! Đây là tâm lí trung thành mù quáng không dám nghe
khác và nói khác. Về tính khí và thái độ của ĐM từ khi ông làm Phó TT, Chủ
nhiệm Văn phòng kinh tế Phủ Thủ tướng cuối thập niên 60 của thế kỉ trước, rồi
Phó TT kiêm nhiệm Trưởng ban Cải tạo Công thương nghiệp Xã hội chủ nghĩa ở miền
Nam sau khi VN thống nhất, Thường trực Ban Bí thư khóa VI từ giữa thập niên 80,
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (1988-91) và từ 1991 trở thành TBT cho tới cuối
1997, sau đó suốt 10 năm trở thành nhân vật điều khiển ở đằng sau TBT Nông Đức
Mạnh trong hai nhiệm kì.
Suốt trên 4 thập niên, đặc biệt từ giữa thập niên 80, Đỗ
Mười đã lãnh đạo trực tiếp hay gián tiếp chính trị VN trên mọi lãnh vực từ
chính trị, kinh tế, ngoại giao, an ninh quốc phòng tới văn hóa-xã hội. Suốt
trong thời gian rất dài này ông đã lãnh đạo trực tiếp hoặc đứng đằng sau giựt
dây và luôn luôn khẳng định những quyết định của mình là đúng, hoặc bắt những
người trong phe cánh phải thực hiện những ý kiến của mình. Cụ thể như chủ
trương triệt hạ tư thương ở miền Nam sau 1975, dùng Doanh nghiệp Quốc doanh giữ
vai trò chủ đạo trong kinh tế, ruộng đất là công hữu, cầu thân với BK từ Hội
nghị Thành đô 1990, coi chuyên viên, các nhà khoa bảng và báo chí chỉ là công
cụ chỉ giữ vai trò tô hồng và vẽ rồng phượng cho nhóm lãnh đạo. Những đồng liêu
nào chống lại đều bị Đỗ Mười trực tiếp hay để vây cánh cách chức, cô lập, như
UVBCT Trần Xuân Bách, Phó Chủ tịch QH tướng Trần Độ, bộ trưởng Ngoại giao
Nguyễn Cơ Thạch , TT Võ Văn Kiệt, Lê Khả Phiêu…Trái lại, lại ủng hộ triệt để
tướng Lê Đức Anh và Nông Đức Mạnh. Đồng thời Đỗ Mười còn dùng quyền lực và uy
tín ngăn cản không để BCT điều tra và thảo luận các vụ tố cáo và khiếu nại của
nhiều UVBCT, UVTU về các vụ "Năm Châu, Sáu Sứ","Tổng cục 2", nhất là về hồ sơ lí
lịch liên quan tới tướng Lê Đức Anh…
Trong những vụ này Đỗ Mười
luôn luôn tìm cách đề cao rất tùy tiện và vô giới hạn các chủ trương và quyết định
của mình theo ý muốn rất chủ quan, bất chấp sự thật, nếu cần sẵn sàng nói không
thành có, có thành không, miễn là thỏa mãn những khẳng định của mình. Trong đó
ông sẵn sàng lợi dụng quyền lực và quyền uy bắt những đồng liêu phải chiều theo
ý định của mình. Thái độ bấp chấp sự thực, dựng lên những dối trá, bắt mọi người
phải thực hiện, không nhận ra được đâu là giới hạn và không được phép vượt qua,
đây là thể hiện một tâm lí của một người không bình thường. Những người bị bệnh nặng tâm lí này thường mất khả năng nhận thức đúng về
các sự việc, do đó không ý thức được mức độ nguy hại của việc mình làm. Trong
phân tâm học thường xếp loại những người như vậy là bị chứng bệnh Narzist.
Đối với một cá nhân bình thường mắc bệnh này thì những hành động của họ chỉ
gây nguy hiểm hay tại hại cho chính mình hay một vài người. Nhưng một chính trị
gia cầm đầu cả một nước mà bị bệnh này thì là một nguy hại khủng khiếp không
lường hết được.[21] Thái độ và tình trạng tâm thần không ý thức được sự việc và nhận ra giới
hạn cần phải có thể hiện ngay cả sau này khi rời chức TBT, ông vẫn coi tự coi
như một người cha trong gia đình sai bảo
đàn con. Chính thái độ này đã đưa Đỗ Mười chọn Nông Đức Mạnh làm TBT suốt hai
nhiệm kì dưới sự chỉ bảo của ông. Nếu đứng về phương diện giữa cá nhân với nhau
thì là chuyện riêng. Nhưng trên quyền lợi chung của một nước thì khi chính
quyền rơi vào một người có tâm thần bất ổn như vậy suốt cả môt thời gian dài
mấy chục năm là một thảm họa chung cho cả một dân tộc!
Thái độ và hành động cực kì quá đáng của Tổng thống Trump, được nhiều nhà
quan sát xếp ông cũng thuộc bệnh này, đã gây những tác hại rất lớn cho Hoa kì
và đồng minh trong thời gian vừa qua, mặc dầu Hoa kì là một xã hội Dân chủ Đa
nguyên ở mức cao và ôngTrump mới chỉ nắm quyền gần hai năm. Ở trong một xã hội
độc tài như ở VN và nắm quyền suốt mấy chục năm thì sức tàn phá do người cầm
đầu toàn trị bị rối loạn tinh thần còn khủng khiếp như thế nào. Vì ở đó không
có những lực cản, không có cơ chế kiểm soát và chế tài như trong một xã hội đa
nguyên.
Theo Đỗ Mười, sở dĩ đạt tới những thành quả trên là do
tiếp tục chế độ độc đảng dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN: "Đổi mới là sự nghiệp khó khăn, chưa có tiền
lệ, nhưng chúng ta đã mạnh dạn tìm tòi, dũng cảm tiến hành và giành thắng lợi
rất quan trọng. Nguyên nhân cơ bản nhất, quyết định nhất là Đảng ta đã giữ vững
vai trò lãnh đạo, không chấp nhận đa nguyên đa đảng..”
Từ lập trường trên, trong Báo cáo Chính trị người cầm đầu
Đảng đã nêu ra "4 nguy cơ" cho ĐCSVN và đề ra các biện pháp. Đó là "Những thách thức
là: nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới”..; "nguy cơ chệch hướng XHCN nếu không khắc phục được những lệch lạc
trong chỉ đạo thực hiện; nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác; âm mưu và
hành động "diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.”
Ở đây do căn bệnh không thể nhận ra sự thực khách quan
nên Đỗ Mười đã không thấy được nguyên nhân đích thực gây ra những hậu quả rất
xấu trong chính trị, kinh tế và xã hội dưới sự lãnh đạo theo chế độ toàn trị và
mô hình phát triển XHCN (Lenin-Mao). Ông đã không dám nhìn thẳng là sự "tụt hậu kinh tế" không
chỉ diễn ra dưới chế độ toàn trị ở VN mà là bức tranh thê thảm chung của các
nước CS từ Liên xô (cũ), Đông Âu, Trung quốc, Bắc Hàn và Cuba từ suốt nhiều
thập kỉ. Vì ở đấy Nhà nước xuyên qua ĐCS độc quyền từ ruộng đất, xí nghiệp tới
các phương tiện sản xuất khác, nên không có cạnh tranh lành mạnh và vì thế các
hoạt động kinh tế thiếu những động lực thúc đẩy phát triển và canh tân trong kĩ
thuật sản suất lẫn quản trị. Họ cũng không nhìn nhận tình trạng tham nhũng và
các tệ trạng xã hội thường bung ra mạnh nhất tới mức không thể kiểm soát được
dưới các chế độ toàn trị. Tham nhũng bắt nguồn từ các cán bộ có quyền lực nhưng
tham lam. Quyền lực ví như một động cơ chạy mà không có thắng (phanh), không có
sức kiềm chế thì vô cùng nguy hiểm. Vì các chế độ toàn trị là phản ảnh của trận
đá banh, cầu thủ cũng là trọng tài -vừa đá banh vừa thổi còi- Đảng thông qua QH
của Đảng ban bố luật, viện kiểm sát nhân dân tối cao (của Đảng), Tòa án Nhân
dân tối cao (của Đảng) , cảnh sát điều tra (cũng của Đảng). Trong tình trạng
như thế thì làm thế nào giữa các đồng chí có quyền lực lại có thể thẳng thừng
với nhau, điều tra nghiêm túc, xét xử nghiêm và công bằng được!
Cho nên giữ vững nguyên tắc tiếp tục duy trì chế độ toàn
trị thì hoàn toàn mâu thuẫn với mục tiêu chống tụt hậu và chống tham nhũng! Vì
vậy hai mục tiêu quan trọng này không thể nào đạt được. Tình hình trong các
thập niên sau chứng minh qui luật này.
Có lẽ hai mục tiêu chống "nguy cơ tụt hậu trong kinh tế" và "nguy cơ tham
nhũng" đề ra tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc chỉ muốn tạo ra tâm lí
hi vọng trong nhân dân và đồng thời biện minh cho mục đích thực sự của nhóm cầm
đầu bảo thủ khi đó là tránh và chống "nguy cơ chệch hướng XHCN" và "diễn biến hòa bình".Qua
đó họ tìm cách thuyết phục dư luận là, không thể theo chế độ Dân chủ Đa nguyên
với các chính đảng đối lập, trái lại chỉ có chế độ độc đảng theo chủ nghĩa
Marx-Lenin mới giải quyết được các khó khăn của đất nước. Theo họ vì thế trong
việc thực hiện đổi mới phải giữ đúng nguyên tắc ĐCSVN tiếp tục độc quyền và
cương quyết chống lại các ảnh hưởng và sự can thiệp của phương Tây, đứng đầu là
Mĩ đang ra sức tìm cách tạo các "diễn biến hòa bình "để làm "chệch hướng XHCN" cuối cùng là phá
hủy sự độc quyền của ĐCS.
Trong thực tế, để củng cố vai trò của Đảng từ khi làm TBT
Đỗ Mười đã tìm cách tăng cường trở lại vai trò lãnh đạo của Đảng đối với chính
phủ, các cơ quan nhà nước và các đoàn thể. Đó là việc "lập lại ban cán sự và Đảng đoàn ở cơ quan Nhà
nước và các đoàn thể" như trong Báo cáo Chính trị của Hội nghị Đại
biểu toàn quốc xác nhận. Không những thế Đỗ Mười còn tấn công cả trong lãnh vực
tư tưởng, văn hóa và nghệ thuật. Chính
nơi này mặc dù chủ trương "cởi trói cho người cầm bút" đã sớm bị dập tắt,
nhưng dư âm của nó vẫn rất đáng ngại. Vì khi ấy chính Tướng Trần Độ đã không chỉ
là người ủng hộ mà còn là nhân vật đi đầu chống lại việc kiểm soát tư tưởng và
bẻ cong ngòi bút từ phía Đảng. Vì thế Đỗ Mười đã cảnh báo:
"Trong
sáng tác và lí luận, phê bình đã nẩy sinh một số khuynh hướng lệch lạc như phủ
nhận thành tựu cách mạng và văn hóa, tách văn nghệ khỏi đường lối chính trị của
Đảng"(BCCT)
Nếu theo dõi diễn biến tư tưởng và lập trường của những
người trong BCT, đứng đầu là Đỗ Mười, về vai trò của Đảng đối với bộ máy nhà
nước từ ĐH 7 tới ĐH 8 thì rõ ràng đã đi giật lùi. Trong Báo cáo Chính trị ĐH 7
(1991), mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước đã được giải thích: "Đảng lãnh đạo phải
bảo đảm phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của Nhà nước. Tính hiệu lực và sức
mạnh của Nhà nước chính là thể hiện tính hiệu quả lãnh đạo của Đảng. Ở đây hoàn
toàn không có sự đối lập giữa nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng với tăng cường
hiệu lực của Nhà nước, không có sự hi sinh cái này cho cái kia..” Xét
về mặt lí thuyết thì quan điểm cân bằng quyền lực giữa Đảng và Nhà nước như
trên là cần thiết, để Nhà nước vẫn có thể chủ động thực hiện đúng được vai trò
của mình, không chỉ là cánh tay dài của BCT trong một chế độ toàn trị. Trên cơ
sở này họ biện minh là không cần đa
đảng, không cần đối lập:
"Có ý
kiến cho rằng, chỉ có cơ chế chính trị đa nguyên với sự tồn tại của đảng phái
đối lập thì mới có dân chủ. Thật ra dân chủ hay không dân chủ điều đó không tùy
thuộc ở chế độ một đảng hay nhiều đảng.”(Nay Nguyễn Phú Trọng cũng lập lại!)
"Trong
điều kiện nước ta hiện nay không có sự cần thiết khách quan để lập nên cơ chế
chính trị đa nguyên, đa đảng đối lập. Thừa nhận đa đảng đối lập có nghĩa là tạo
điều kiện cho sự ngóc đầu dậy ngay tức khắc và một cách hợp pháp các lực lượng
phản động, phục thù trong nước và từ nước ngoài trở về hoạt động chống tổ quốc,
chống nhân dân, chống chế độ.” (BCCT ĐH 7)
Nhưng ở đây họ không biết –hay giả vờ không biết- qui
luật của quyền lực trong chính trị từ Đông sang Tây từ cổ chí kim. Ở đâu quyền
lực càng nhiều, càng lớn và càng lâu thì ở đó người có quyền lực càng tìm mọi
cách lợi dụng, dù đó là độc tài cá nhân như thời phong kiến, hay độc tài đảng
trị như ở nhiều nước CS. Nhưng chỉ hơn hai năm sau với quyết định "lập lại ban cán sự
và Đảng đoàn ở cơ quan Nhà nước và các đoàn thể" Đỗ Mười đã vất vào
sọt rác quyết định của ĐH 7 để trở lại vai trò Đảng là người chỉ huy duy nhất
và Nhà nước chỉ là cơ quan thừa hành! Vì khi đó Đỗ Mười đã nắm vững quyền lực
trong tay!...
5.10.2018
[1] . Đoàn kết số
407, 11. 1988, tr. 37
[2] . Nhân dân (ND) 26.6.1991
[3] . ND 27.6.1991
[4] . ND 28.6.1991
[5] . ND28.6.1991
[6] . ND 23.6.93
[7] . Nguyễn Đức Bình, xây dựng đảng về tư
tưởng chính trị, Tạp chí CS số 5, 3.99, tr. 7-12
[8] . VNExpress 13.6.08, Soha 21.2.14
[9] . Báo cáo chính trị (BCCT), ND 21.1.94
[10] . Nh.t.
[11] . ND 26.1.94
[12] . ND 13.8.94
[13] . BCCT, sách đã dẫn
[14] . Nghị quyết ĐH 6 (12.1986)
[15] . Âu Dương Thệ, die politische
Entwicklung in Gesamtvietnam 1975 bis 1982: Anspruch und Wirklichkeit (Tình
hình chính trị trên toàn VN từ 1975 tới 1982: Mong muốn và thực tế, TUDUV
Studie, München 1987, tr. 82 tiếp theo
[16] .ND14.3.94
[17] . ND26.1.94
[18] . ND 11.5.97; Trần Thế Dương, tư duy của
lãnh đạo đã đổi mới? DC&PT số 27, 12.03,tr. 9
[19]. Nguyễn Khoa Điềm, chỉ đạo chặt chẽ hơn
nữa công tác khoa giáo, diễn văn tại Hội nghị công tác
khoa giáo toàn
quốc tháng 3.2002, ND 12.4.02
[20] . Trần Văn Giàu, „Nguyên nhân chủ yếu của
sự lạc hậu về khoa học xã hội là do sự lãnh đạo của
Đảng.“, Tuổi trẻ,
27.10.88
[21] . Nhà báo Huy Đức đã kể lại, trong một
cuộc gặp một số nhà báo bên hành lang QH chính Đỗ Mười
đã kể ông đã bị
căn bệnh tâm thần từ thời thanh niên.