“Đảm nhiệm chức danh”
không giúp nhiều cho tinh giản biên chế nếu không đi kèm việc sáp nhập các đơn
vị hành chính, “Hợp nhất bộ máy” và “xã hội hóa” các tổ chức chính trị - xã
hội.
Muốn “xã hội hóa” các
tổ chức chính trị xã hội, Quốc hội cần ban hành Luật về hội, điều đã được quy
định trong Hiến pháp từ năm 1946 và nhắc lại tại điều 25, Hiến pháp 2013:
“Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự
do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các
quyền này do pháp luật quy định”.
Ủy ban nhân dân phường Quang Hanh (Thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh) thực hiện tinh gọn biên chế, tăng hiệu quả giải quyết các thủ tục hành chính trên địa bàn. (Nguồn: sggp.org.vn) |
Tại điều 9 Hiến pháp
2013 danh sách 6 tổ chức chính trị xã hội là được nêu đích danh là: Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam,
tuy nhiên chỉ có Công đoàn là có những quy định cụ thể tại điều 10.
Đã là tổ chức chính
trị - xã hội do công dân tự nguyện lập ra theo quy định của pháp luật thì quyền
và nghĩa vụ là như nhau. Sự phân biệt không giúp cho tổ chức đó tăng uy tín hơn
tổ chức khác.
Một điều đã ghi trong
Hiến pháp hơn 70 năm vẫn chưa được thực hiện, điều này đặt ra các câu hỏi cần
sớm có câu trả lời.
Nếu trong giáo dục
Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết 29-NQ/TW “Về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo…” thì cũng nên đặt lịch trình ban hành một nghị quyết “Về
đổi mới căn bản, toàn diện hệ thống chính trị…”.
Đâu là nguyên nhân cấp
bách cho sự ra đời một nghị quyết như vậy?
Thời gian
là hàng hóa
Loài người đã trải qua
ba cuộc cách mạng công nghiệp và hiện đã bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ 4 (cách mạng công nghiệp 4.0).
Đây là cuộc cách mạng
đang diễn ra không phải trên các đại công trường hàng trăm ha đất, hàng vạn lao
động mà là những văn phòng nhỏ bé, những tòa nhà tiện nghi nằm trong “Thung
lũng Silicon” (Silicon Valley - Thung lũng Điện tử) ở Hoa Kỳ.
Cuộc cách mạng này cần
chất xám, cần người giỏi, cần nhân tài chứ không phải lao động cơ bắp.
Với cách mạng công
nghiệp 4.0, cách điều hành và quản lý xưa cũ không còn phù hợp nếu không nói là
biến thành rào cản tiến bộ xã hội.
Bỏ thói quen điều hành
(lãnh đạo) và quản lý cổ hủ, bước vào kỷ nguyên kỹ thuật số, kỷ nguyên trí tuệ
nhân tạo chỉ có thể nếu hệ thống chính trị được thay đổi đồng bộ.
Muốn thế không thể chờ
vài tháng, thậm chí cả năm để nghị quyết từ văn phòng cấp ủy được thực hiện tại
văn phòng chính quyền.
Chừng nào người ban
hành quyết sách chỉ làm nhiệm vụ soạn thảo còn thực hiện là của người khác thì
chừng đó thời gian chưa trở thành hàng hóa (nói chính xác là thời gian chưa
được lượng hóa thành tiền).
Trong nền kinh tế hội
nhập thời 4.0, nếu không tận dụng thời gian các đơn hàng sẽ ngay lập tức chuyển
hướng sang quốc gia khác chỉ bởi một cú nhấp chuột.
Sức sáng
tạo bị kìm hãm
Người Việt kém sáng
tạo hay sức sáng tạo của người Việt bị kìm hãm?
Người Việt không phải
là dân tộc kém sáng tạo, tuy nhiên khả năng sáng tạo không được phát huy là một
thực tế không thể phủ nhận.
Với gần 100 triệu dân,
Việt Nam xếp thứ 14 trên thế giới về dân số trong khi xếp thứ 49 theo GDP (năm
2018 khoảng 240 tỷ USD).
Nhiều năm qua, số bằng
phát minh, sáng chế của Việt Nam thua cả Singapore, một nước có chưa đến 10
triệu người.
Sự phát triển kinh tế
mà chúng ta coi là thần kỳ giai đoạn vừa qua chủ yếu dựa vào giá nhân công rẻ,
bán nguyên liệu thô (than, dầu mỏ, khoáng sản,…).
Hàm lượng chất xám
trong các sản phẩm “Made in Việt Nam” khá thấp. Lượng hàng hóa xuất khẩu do các
doanh nghiệp Việt Nam làm ra chiếm một tỷ lệ nhỏ so với các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài.
Sự yếu kém ấy bắt
nguồn từ tư duy quản trị quốc gia, từ một nền giáo dục lấy “thành tích” làm thước đo, từ đội ngũ cán bộ lãnh đạo
nhiều bằng cấp nhưng chưa (hay không?) đủ khả năng làm việc trong môi trường
quốc tế và đội ngũ công chức “cắp ô” chiếm tỷ lệ khá lớn.
Rừng không còn là
vàng, biển không còn là bạc trong khi tài năng, trí tuệ của con người chưa được
đánh giá đúng mức, đó là thực trạng hiện tại của đất nước.
Thay đổi tư duy quản
trị chỉ có thể nếu hệ thống chính trị có những thay đổi mang tính đột phá,
người dân được tự mình lựa chọn và bãi miễn người lãnh đạo thông qua bầu cử
trực tiếp.
Nhiều văn bản, nhiều
phát biểu thừa nhận hệ thống chính trị tồn tại các “nhóm lợi ích” nhưng chỉ ra cụ thể đặc điểm nhận dạng
của các nhóm lợi ích đó hình như quá khó.
Các nhóm lợi ích không
thể ngang hàng theo kiểu “cá mè một lứa”, nhất định phải có “Nhóm lợi ích độc quyền về kinh
tế và chính trị thâu tóm, lũng đoạn (Nhà nước - NV)”
như ý kiến của một vị Phó Ban tuyên giáo được đăng trên Tạp chí Cộng sản số ra
ngày 2/6/2015. [3]
Một trong những “nhóm
lợi ích” nguy hại nhất hiện nay chính là nhóm lợi ích hình thành từ đội ngũ
quan chức và doanh nhân mà người viết từng đề cập dưới cái tên “Tế bào quan
doanh” trong bài “Đâu là tế bào gốc của xã hội “nhóm lợi ích”? [4]
Khai phóng dân trí đòi
hỏi một hệ thống chính trị minh bạch, cởi mở, những người đứng đầu tài năng,
dũng cảm và đương nhiên không thể thiếu một hệ thống pháp luật được thượng tôn.
Chừng nào một triệu
người kê khai tài sản chỉ có vài người bị phát hiện chưa trung thực thì chừng
đó niềm tin của người dân vào đội ngũ cán bộ, công chức chưa thể cải thiện.
Người không biết làm
giàu cho bản thân thì không thể làm giàu cho cộng đồng.
Người sợ làm giàu thì
không thể làm lãnh đạo, những điều đơn giản ấy nhiều người biết song không phải
ai cũng dũng cảm thừa nhận bởi lẽ xã hội Việt Nam ngày nay tồn tại một bộ phận
không nhỏ quan chức giàu có bất minh, một bộ phận (cũng không nhỏ) doanh nhân
làm giàu phi pháp.
Sáng tạo khoa học yếu
kém nhưng “sáng tạo” trong việc bòn rút tài sản công, che giấu các vụ làm ăn
phi pháp lại rất thịnh hành. Khi nghỉ hưu mới “phát lộ” khối tài sản khổng lồ
là điều mà không ít quan chức đã thể hiện.
Người giàu có một cách
minh bạch làm lãnh đạo chẳng có gì phải dị ứng.
Dân số sẽ
già hóa
Quy mô dân số trong
vài ba năm nữa sẽ đạt con số 100 triệu người. Cơ cấu dân số thay đổi theo thời
gian, nếu số người trong độ tuổi lao động (tại Việt Nam theo quy định trong
Luật Lao động là từ 15-64) lớn gấp đôi số người phụ thuộc (trẻ em dưới 15 và người
già từ 65 trở lên) thì cơ cấu dân số đó được gọi là “Cơ cấu dân số vàng”.
Từ năm 2012, nhóm dân
số có độ tuổi từ 15-64 chiếm khoảng 69% tổng số dân và đó là điểm khởi đầu của
thời kỳ “dân số vàng”.
Khi tỷ lệ sinh giảm và
số người già tăng thì tỷ lệ người lao động trực tiếp sẽ giảm, lúc đó muốn đảm
bảo nhu cầu vật chất cho dân chúng và tốc độ tăng trưởng không có cách nào khác
là phải tăng năng suất lao động, điều này chỉ có thể với nền sản xuất tự động
hóa ở mức cao, máy móc thay thế phần lớn lao động của con người.
Theo Ngân hàng thế
giới (World Bank):“Tốc độ
già hoá tại Việt Nam hiện nằm trong nhóm nhanh nhất thế giới, nhưng nó lại diễn
ra trong bối cảnh mức thu nhập thấp hơn nhiều các nước cũng già hoá khác”.
Nói tóm lại, Việt Nam
chưa giàu đã già và khoảng 70% người già không có lương hưu, nếu không thay đổi
nền quản trị quốc gia thì đây sẽ là gánh nặng, là điểm khởi đầu cho những hệ
lụy khó lường đối với thể chế chính trị.
Tệ tham nhũng trong
cán bộ, công chức rất trầm trọng và chưa có chuyển biết rõ rệt theo chiều hướng
giảm thiểu.
Mỗi thể chế chính trị
thường chỉ có hai lựa chọn “Phân quyền” hay “Tập quyền”.
“Tập quyền” nghĩa là
người lãnh đạo cao nhất có quyền quyết định mọi vấn đề quan trọng của tổ chức
(nhà nước) với sự tham gia rất ít của cấp dưới hoặc cố vấn.
“Tập quyền” cho phép
người lãnh đạo kiểm soát các hoạt động của các thành viên và cả tổ chức dễ dàng
hơn, giảm thiểu chi phí hành chính,… nhưng cũng tăng nguy cơ cho việc đầu cơ
quyền lực.
Vì lý do đó, việc “Đảm
nhiệm chức danh” và “Hợp nhất bộ máy” trong giai đoạn này là cần thiết, là con
đường tất yếu mà hệ thống chính trị Việt Nam hướng tới, song đi kèm với nó phải
là một cơ chế kiểm soát quyền lực.
Tại các nước tư bản
phát triển tồn tại mô hình “Nhị tam”, đó là “Tam quyền phân lập” và “Tam vị
nhất thể”.
Tam quyền phân lập là
ba nhánh quyền lực Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp độc lập với nhau trong khi đó
“Kinh tế thị trường”, “Xã hội dân sự” và “Nhà nước pháp quyền” hợp thành một
“chỉnh thể” khác và được một số tác giả gọi là “Tam vị nhất thể”.
Bất kỳ mô hình nào
cũng tồn tại những khiếm khuyết, khắc phục các khiếm khuyết đó không phải là
đặc quyền của các nhà lý luận mà là trách nhiệm của người thực hiện.
Trong binh pháp cổ
điển, thế chân vạc (ba điểm tựa) luôn là thế vững chãi nhất, hình học cổ điển
cho thấy qua ba điểm có thể tạo nên một mặt phẳng, vậy nên “Nhị tam” cũng không
phải là tối ưu mà phải là “Tam tam”, trong đó “tam” thứ ba tạm gọi là “Tam dân
hợp nguyện” nghĩa là ba đòi hỏi của dân chúng: “Của dân, do dân, vì dân” phải
được thực thi trong thực tế.
Đức Quốc công tiết chế
Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn từng nói: “Cái
gì mà dân muốn thì trời cũng phải thuận theo”, suy ra “Tam dân hợp
nguyện” mới là cái gốc bền vững muôn đời mà bất kỳ thể chế chính trị nào, bất
kỳ vị quân vương nào cũng không được phép làm trái.
Tài liệu
tham khảo:
[1]https://vov.vn/chinh-tri/thoi-diem-chin-muoi-de-thuc-hien-tong-bi-thu-lam-chu-tich-nuoc-821526.vov
[2]http://www.qdnd.vn/chinh-tri/cac-van-de/bai-4-loi-giai-nao-cho-bai-toan-nhat-the-hoa-519040
[3]http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2015/33662/Loi-ich-nhom-va-Chu-nghia-tu-ban-than-huu-canh.aspx
[4]http://giaoduc.net.vn/Goc-nhin/Dau-la-te-bao-goc-cua-xa-hoi-nhom-loi-ich-post171210.gd
Xuân
Dương